Tin Tức 05 https://tintuc5.samba.vn Tue, 25 May 2021 13:32:08 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.1 https://tintuc5.samba.vn/wp-content/uploads/2019/11/cropped-bn-header-32x32.jpg Tin Tức 05 https://tintuc5.samba.vn 32 32 Phác Họa Chân Dung Một Vị Thánh – Đức Hồng Y John Henry Newman https://tintuc5.samba.vn/phac-hoa-chan-dung-mot-vi-thanh-duc-hong-y-john-henry-newman/ Tue, 12 Nov 2019 05:52:08 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=497 Ngày 1 tháng 7 năm 2019, Tòa thánh Vatican loan báo Chân phước John Henry Newman và 4 vị khác sẽ được tuyên phong hiển thánh vào ngày 13 tháng 10 năm 2019. Chân phước Newman được đánh giá là một trong những bậc thầy vĩ đại của Hội Thánh, vì thế sẽ thật hữu ích khi nhìn lại cuộc đời và giáo huấn của ngài để đón nhận những bài học cần thiết cho đời sống và sứ vụ của Hội Thánh ngày nay.

Một cuộc đời kiếm tìm chân lý

Đức hồng y John Henry Newman sinh tại Luân Đôn, Anh Quốc, ngày 21 tháng 2 năm 1801. Ngài được dạy dỗ trong truyền thống Anh giáo và từ nhỏ đã có thiên hướng tôn giáo, cụ thể là siêng đọc Kinh Thánh. Kinh Thánh giúp ngài sống đạo đức, nhưng mối quan tâm tri thức lại khiến ngài đặt những câu hỏi nền tảng và muốn tìm kiếm câu trả lời rõ ràng, chính xác. Vì thế khi mới 14 tuổi, ngài đã bị cám dỗ bỏ đạo: “Tôi muốn sống tốt nhưng không cần theo đạo; tôi không hiểu Thiên Chúa yêu thương có nghĩa gì”.

Chính trong giai đoạn đó, Chúa gõ cửa lòng Newman. Trong những ngày nghỉ lễ năm 1816, Newman đọc cuốn Force of Truth (Sức mạnh của chân lý) của Thomas Scott, và tác phẩm đó đã gây ấn tượng rất sâu đến nỗi ngài coi đó như “cuộc hoán cải đầu tiên” và là một trong những ơn ban lớn nhất trong đời. Newman bắt đầu nhận thức cách sâu sắc sự hiện hữu và hiện diện của Thiên Chúa cũng như của thế giới vô hình. Ngài cũng rút từ tác phẩm của Thomas Scott hai câu ghi dấu ấn suốt đời ngài: “Tìm kiếm sự thánh thiện hơn là bình an”, và “Bằng chứng duy nhất của sự sống là sự tăng trưởng”.

Sau cuộc hoán cải đầu tiên này, Newman đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự và hết lòng bước theo Chân lý như ngài diễn tả trong tác phẩm Apologia pro vita sua: “Khi tôi 15 tuổi (mùa Thu năm 1816), một sự thay đổi lớn lao về tư tưởng diễn ra trong tôi. Tôi đặt mình dưới sự hướng dẫn của Kinh Tin kính và tâm trí đón nhận đạo lý đức tin, đó là những điều nhờ lòng Chúa thương xót, sẽ không bao giờ lu mờ hoặc bị xóa nhòa”. Newman bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của những tín điều trong Kitô giáo: sự Nhập thể của Con Thiên Chúa, công trình cứu độ của Đức Kitô, ân huệ Thánh Thần ngự xuống trong linh hồn người chịu Phép Rửa, đức tin không đơn thuần là một lý thuyết nhưng cần được diễn tả trong chương trình sống.

Sau khi hoàn tất chương trình học tại Trinity College, Oxford, Newman trở thành mục sư Anh giáo và sau này phụ trách nhà thờ Saint Mary, nhà thờ của đại học Oxford. Trong thời gian này, ngài quan tâm nghiên cứu các Giáo phụ, đồng thời cảm thấy quan ngại trước tình trạng thiêng liêng của Giáo hội Anh giáo trước sự gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do (liberalism) tại Oxford cũng như trên khắp nước Anh. Để chống lại xu hướng này, Newman cùng với một vài người bạn lập nên Phong trào Oxford (Oxford Movement) năm 1833. Phong trào này phê phán việc Anh Quốc không còn thực hành đức tin, và kêu gọi phải trở về với Kitô giáo nguyên thủy thông qua cuộc cải cách đích thực về mọi mặt: tín lý, thiêng liêng, phụng vụ. Với mục đích này, phong trào thực hiện những ấn phẩm nhỏ, dễ phổ biến, cố gắng gây tác động trên hàng giáo sĩ cũng như các tín hữu đơn thành, đang bị giằng co giữa hai thái cực là chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý.

Newman nhận ra rằng cuộc tranh luận chống lại chủ nghĩa tự do về mặt tôn giáo cần có một nền tảng giáo thuyết vững chắc, và ngài xác tín ngài đã tìm được nền tảng đó nơi những văn bản của các Giáo phụ mà ngài coi là các sứ giả và tiến sĩ đích thực của đức tin Kitô. Từ đó, Newman khai triển lý thuyết được gọi là Via media (con đường trung dung). Newman cũng tìm cách chứng minh rằng Anh giáo là người thừa kế hợp pháp của Kitô giáo nguyên thủy và là Giáo hội đích thực trong Đức Kitô, vì nơi Anh giáo không có những sai lầm về giáo thuyết như Tin Lành, cũng không có những lạm dụng mà ngài cho là đang có trong Công giáo Rôma.

Thế nhưng khi nghiên cứu lịch sử Giáo hội ở thế kỷ IV, Newman khám phá một điều quan trọng là Kitô giáo trong thời đại ngài đang sống lại phản ánh 3 nhóm tôn giáo ở thế kỷ IV, có thể so sánh như sau: Tin Lành giống như phái Ariô; Công giáo Rôma giống như các tín hữu Rôma; Anh giáo giống như người theo thuyết Ariô nửa vời (semi-Arianism). Khám phá đó bắt đầu gợi lên những nghi ngờ về Anh giáo. Không lâu sau đó, Newman đọc một bài viết trong đó tác giả so sánh Anh giáo với những người theo thuyết Donatism ở châu Phi thời thánh Augustinô. Và ngài sẽ không bao giờ quên câu nói của thánh Augustinô: “Hội Thánh phổ quát, trong phán quyết của mình, là sự bảo đảm cho Chân lý” (Securus judicat orbis terrarum). Newman nhận ra rằng những xung đột về giáo thuyết thời Hội Thánh sơ khởi được giải quyết không chỉ dựa vào nguyên tắc về tính cổ xưa (antiquity) nhưng còn là tính Công giáo (catholicity), nghĩa là ý kiến của Hội Thánh xét như một toàn thể chính là lời tuyên bố bất khả ngộ.

Trung thành với nguyên tắc phải tôn trọng Chân lý, Newman quyết định lui về Littlemore, một làng nhỏ gần Oxford, dành thời giờ cho việc cầu nguyện và nghiên cứu. Ngài bắt đầu liên kết những đường dây suy tưởng xuất hiện trong những năm qua. Câu hỏi đặt ra là nếu Hội Thánh Công giáo Rôma thực sự là tông truyền thì làm sao có thể lý giải những giáo thuyết bên Công giáo xem ra không phải là di sản được để lại từ Kitô giáo nguyên thủy?

Từ đó hình thành những suy nghĩ dẫn đến nguyên lý về sự phát triển chính thực mà Newman khai triển để giải thích những giáo huấn mới trong đời sống Hội Thánh: những tín điều sau này là sự phát triển chính thực mặc khải nguyên thủy. Newman trình bày lập luận này trong bài An Essay on the Development of Christian Doctrine (Sự phát triển giáo thuyết Kitô), trong đó ngài phi bác quan điểm cho rằng chân lý hoặc sai lầm trong các vấn đề tôn giáo chỉ là những ý kiến khác nhau, và ơn cứu độ không lệ thuộc vào lời tuyên xưng đức tin đúng đắn. Newman khẳng định: “Chân lý và giả dối được đặt trước mắt chúng ta để thử lòng chúng ta; chọn lựa của chúng ta là chọn lựa đáng sợ vì được cứu độ hay bị chối bỏ tùy thuộc vào đó; trước mọi sự, phải bám chặt vào đức tin Công giáo”.

Gia nhập Hội Thánh Công giáo

Khi Newman nghiên cứu về sự phát triển giáo thuyết Kitô, ngài nhận ra rằng Hội Thánh Rôma là Hội Thánh của các Giáo phụ, Hội Thánh đích thực của Đức Kitô. Vì thế ngày 9 tháng 10 năm 1845, ngài tuyên xưng đức tin Công giáo, được Chân phước Dominic Barberi, người Ý, dòng Passionist, đón nhận vào Hội Thánh Công giáo.

Quyết định của Newman gia nhập Hội Thánh Công giáo đã gây chấn động lớn trong Giáo hội Anh giáo. Có người cảm phục trước quyết định can đảm của ngài nhưng không ít người coi đó như sự phản bội, và Newman phải chịu nhiều đau khổ vì quyết định này. Dư luận vẫn còn bám theo ngài trong nhiều năm sau đến độ có lúc báo chí tung tin Newman cảm thấy lạc lõng trong Hội Thánh Công giáo, nên sẽ trở lại Giáo hội Anh giáo. Thế nhưng Newman rất vững tâm như ngài viết cho một người quen: “Kể từ khi được đón nhận vào Hội Thánh Công giáo, tôi không có lúc nào bị lung lay trong niềm tin vào Hội Thánh. Tôi tin chắc, và sẽ mãi chắc chắn rằng Đức Giáo hoàng là trung tâm của sự hiệp nhất và là Đấng Đại diện Chúa Kitô; tôi mãi mãi tin vào Kinh Tin kính Hội Thánh tuyên xưng, mọi tín điều trong đó; tôi hoàn toàn thỏa mãn với việc thờ phượng, kỷ luật, giáo huấn của Hội Thánh; và dù rất khó khăn, tôi vẫn mong mỏi nhiều người bạn của tôi theo Tin Lành cũng sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc của tôi”.

Sau khi trở thành linh mục Công giáo, Newman lập chi nhánh Dòng Thánh Philip Neri ở Birmingham [1]. Trong nhiều hoạt động thần học và mục vụ, ngài chú trọng nhiều nhất đến việc đào tạo trí thức và thiêng liêng cho các tín hữu Công giáo, các anh em trong dòng và các tân tòng. Ngài xác tín rằng trong thời đại hiện nay với những thay đổi rất nhanh về văn hóa và xã hội, cần phải có một đức tin có khả năng bày tỏ những lý do của niềm hi vọng Kitô giáo. Vì thế ngài làm việc không ngơi nghỉ để huấn luyện những giáo dân có học thức, sống trong thế giới, làm việc trong ánh sáng đức tin và có khả năng bảo vệ đức tin của mình.

Cha John Henry Newman được Đức Giáo hoàng Lêô XIII nâng lên hàng Hồng y ngày 15 tháng 5 năm 1879, nhưng ngài xin là không chịu chức Giám mục và vẫn ở lại Birmingham. Trong dịp này, ngài có bài phát biểu nổi tiếng, được coi như những lời tiên tri về thời đại chúng ta ngày nay:

“Chủ nghĩa tự do về tôn giáo là học thuyết chủ trương không có chân lý tích cực trong tôn giáo, niềm tin nào cũng tốt như nhau, và đây là chủ trương đang chiếm ưu thế từng ngày. Chủ trương này không chấp nhận bất cứ tôn giáo nào là chân lý, vì mọi tôn giáo chỉ là chuyện ý kiến riêng. Tôn giáo mặc khải không phải là chân lý nhưng chỉ là tình cảm và cảm nhận; không phải sự kiện khách quan; đó là quyền của mỗi người nói ra điều mình thích. Đạo đức không nhất thiết phải xây nền trên đức tin. Người ta có thể đi nhà thờ Tin Lành hay Công giáo, có thể thấy ích lợi của cả hai nhưng không thuộc bên nào cả. Người ta có thể làm bạn với nhau về tư tưởng và tình cảm thiêng liêng mà không có chung niềm tin và cũng không cần phải có. Bởi lẽ tôn giáo là chuyện cá nhân, đặc thù, riêng tư nên không cần phải biết đến trong những tương giao con người. Nếu một người cứ mỗi ngày lại theo một đạo thì mắc mớ gì đến bạn? Thật không thích hợp nếu nghĩ về tôn giáo của một người như nghĩ đến nguồn lợi tức hoặc việc điều hành gia đình của họ. Tôn giáo không liên quan gì đến mối dây xã hội cả”.

Những gì Đức hồng y Newman nói về chủ nghĩa tự do, ngày nay có thể gọi là chủ nghĩa tương đối và chúng ta không thể quên cụm từ nổi tiếng của Đức Bênêđictô XVI về “sự chuyên chế của chủ nghĩa tương đối”! Lối nghĩ và lối sống mà Đức hồng y Newman cảnh giác xem ra ngày càng phổ biến và thắng thế, với những hậu quả tai hại rất lớn cho đời sống đức tin, nhất là chiều kích văn hóa và xã hội của đức tin. Đức hồng y Newman nhắc nhở mọi Kitô hữu, mục tử cũng như giáo dân, rằng Chân lý là kho tàng quý giá mà chúng ta đón nhận bằng đức tin, chân lý ấy phải được loan báo cách trung thực và bảo vệ bằng mọi giá.

Ngày 11 tháng 8 năm 1890, Đức hồng y Newman qua đời tại nhà dòng ở Edgbaston. Vào thời điểm đó, tờ Times of London (Thời báo Luân Đôn) viết: “Dù Rôma có tuyên thánh cho Hồng y Newman hay không, ngài cũng sẽ được tuyên thánh trong suy nghĩ của những người đạo đức thuộc nhiều niềm tin ở nước Anh”.

Sự nhìn nhận của Rôma

Trong dịp Đức Lêô XIII nâng cha John Henry Newman lên hàng Hồng y, Tòa Thánh Vatican đã gửi đến Hồng y Newman sứ điệp ngày 15 tháng 3 năm 1879: “Đức Thánh Cha trân trọng cách sâu sắc tài năng và học thức nổi trội của hiền huynh, lòng đạo đức và sự nhiệt thành của hiền huynh trong việc phục vụ Tác vụ thánh, sự tận tụy và sự gắn bó hiếu thảo của hiền huynh với Tòa Thánh, và sự phục vụ đáng kể của hiền huynh trong nhiều năm đối với tôn giáo, (ngài) quyết định dành cho hiền huynh bằng chứng công khai và cao quý về sự trân trọng và thiện ý của ngài”.

Trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày Newman được nâng lên hàng hồng y, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gửi thư cho Đức cha George Patrick Dwyer, Tổng giám mục Birmingham, trong đó ngài viết: “Tư tưởng triết học và thần học cũng như linh đạo của Đức hồng y Newman bám rễ sâu và được phong phú hóa nhờ Kinh Thánh và giáo huấn của các Giáo phụ, (tư tưởng đó) vẫn còn nguyên giá trị và tính độc đáo của nó….Tôi hi vọng rằng dung mạo và giáo huấn của vị hồng y vĩ đại này sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho việc thi hành sứ mệnh của Hội Thánh trong thế giới ngày càng hiệu quả hơn, và giúp canh tân đời sống thiêng liêng của các thành viên trong Hội Thánh cũng như thúc đẩy việc phục hồi sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu”.

Ngày 19 tháng 9 năm 2010, Đức Bênêđictô XVI nâng Đức hồng y Newman lên hàng Chân phước. Trong giờ canh thức trước ngày tuyên phong, tại công viên Hyde Park, Luân Đôn, Đức Bênêđictô XVI đã nêu cao tấm gương của Newman: “Newman dạy chúng ta rằng nếu chúng ta đã đón nhận chân lý của Đức Kitô và trao phó đời sống cho Người, thì không thể có sự tách biệt giữa điều chúng ta tin và cách chúng ta sống. Mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta phải quy hướng về vinh quang Thiên Chúa và mở rộng Vương quốc của Người. Newman đã hiểu được điều này và đã là nhà vô địch đáng kính trong sứ vụ tiên tri của người Kitô hữu. Ngài thấy rõ ràng rằng chúng ta không đón nhận chân lý như một hành động thuần tri thức cho bằng (đón nhận) trong một tiến trình năng động thiêng liêng, và chân lý ấy thấm vào tận tâm khảm chúng ta. Chân lý được thông truyền không chỉ bằng giáo huấn, dù là điều quan trọng, nhưng còn bằng chứng tá của những cuộc đời đã sống chân lý ấy trong sự toàn vẹn, trung tín và thánh thiện; những ai sống trong và nhờ chân lý sẽ tự nhiên nhận ra những gì là giả dối, và vì giả dối nên cũng là thù nghịch của cái đẹp, cái thiện vốn song hành với vẻ huy hoàng của cái thật, Veritatis splendor”.

Kết luận

Trong một bài thuyết trình về Đức hồng y Newman nhân kỷ niệm 100 năm ngày qua đời của ngài (1990), Đức hồng y Joseph Ratzinger (Đức Bênêđictô XVI sau này) đã nói: “Đối với tôi, đặc điểm của vị Tiến sĩ Hội Thánh là ngài không chỉ dạy chúng ta bằng tư tưởng và lời nói nhưng còn bằng đời sống của ngài, vì nơi ngài, tư tưởng và đời sống đan quyện vào nhau. Nếu thế, Newman cũng đứng trong hàng ngũ những bậc thầy vĩ đại của Hội Thánh, vì ngài vừa chạm đến con tim chúng ta vừa soi sáng suy nghĩ của chúng ta”.

Nhận xét này vừa đáng quý vừa mang tính tiên tri. Đáng quý vì chỉ cho chúng ta thấy dung mạo thực sự của Newman: không chỉ là nhà thần học với những suy tư sâu sắc nhưng còn là một vị thánh. Và mang tính tiên tri vì nhiều người trong Hội Thánh Công giáo ngày nay đang nghĩ đến một ngày Thánh John Henry Newman sẽ được tuyên phong là Tiến sĩ Hội Thánh, vị tiến sĩ không chỉ dạy chúng ta thứ thần học bàn giấy nhưng còn giúp chúng ta sống nền thần học bàn quỳ vốn là điều hết sức cần thiết trong thời đại tục hóa ngày nay.

Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm

[1] Dòng Thánh Philip Neri (The Congregation of the Oratory of St Philip Neri) là Hội dòng giáo hoàng về đời sống tông đồ, quy tụ các linh mục và sư huynh sống chung trong một cộng đoàn, không có lời khấn công khai nhưng chỉ liên kết với nhau bằng mối dây đức ái. Thánh Philip Neri lập dòng này ở Rôma năm 1575. John Henry Newman, sau khi thành linh mục Công giáo, đã cùng với một vài linh mục lập chi nhánh ở Birmingham, cuối cùng dời về Edgbaston.

Tài liệu tham khảo 

Herman Geissier, On the 125th Anniversary of John Henry Newman’s Becoming a Cardinal, L’Osservatore Romano, 11/18 August 2004.

Fabio Attard SDB, Blessed John Henry Newman, Theology and Holiness, www.newmanfriendsinternational.org/en/blessed-john-henry-cardinal-newman.

Benedict XVI, Prayer Vigil on the Eve of the Beatification of Cardinal John Henry Newman, https://w2.vatican.va/content/benedict-xvi/en/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100918_veglia-card-newman.html

John Paul II, Letter to H.E. Msgr. George Patrick Dwyer, Archbishop of Birmingham, for the first centenary of the elevation to the cardinalate of John Henry Newmanhttps://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/en/letters/1979/documents/hf_jp-ii_let_19790514_100-newman.html

]]>
Bài giảng lễ an táng thày GB. Nguyễn Khang An https://tintuc5.samba.vn/bai-giang-le-an-tang-thay-gb-nguyen-khang-an/ Tue, 12 Nov 2019 05:49:48 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=492 Kính thưa ….

Chúng ta cử hành lễ an táng và cầu nguyện cho thầy An, thuộc hội Anrê Phú Yên và tiễn đưa thầy về nơi an nghỉ cuối cùng. Đó là một nghĩa cử cao đẹp của tình liên đới, hiệp thông giữa kẻ đi, người còn ở lại.

Thưa anh chị em : vào tuổi 59, thầy An không chết trẻ, mà cũng chẳng chết già : chết vào tuổi bánh tẻ (theo cách nói của người Miền Bắc) và chết vào tuổi xồn xồn (theo kiểu nói của người Miền Nam), nhưng chết vào tuổi đó, đời thầy còn rất nhiều dang dở.

Từ hoàn cảnh của thầy, xin gởi tới cộng đoàn đề tài “dang dở” của kiếp sống phàm nhân với vô số nghịch lý để gẫm suy thân phận con người mong manh, mỏng giòn, yếu đuối, nếu không được ánh sáng đức tin soi dẫn, cuộc đời chỉ là một chuỗi những bế tắc, vô nghĩa, dang dở, dở dang.

Dang dở là một ý niệm, hình thành từ kinh nghiệm sống, diễn tả những công việc, những hoài bão chưa hoàn tất, manh mún, ngổn ngang, phải bỏ dở, và không thể đưa vào sử dụng theo mục đích yêu cầu. Dang dở đúng là một thất bại và nó chiếm được vương vị khi một sinh linh nằm xuống.

Chẳng ai thích dang dở bao giờ, nhưng lại không tài nào tống khứ nó khỏi cuộc sống. Nó nhập cuộc khi một người được sinh vào đời, và đeo bám họ cho đến chết. Đối diện với dang dở mới thấy đời người mong manh, vắn vỏi, ước mơ chưa tròn đã phải ra đi. Thật là : “con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ” (Is 38, 12).

Dang dở, thất bại, thánh giá cuộc đời và cả sự chết nữa quả là một mầu nhiệm, người ta không thể lý giải bằng trí khôn thuần túy, mà phải nại tới mạc khải và nhờ ánh sáng đức tin soi dẫn, những thánh giá, đau khổ cuộc đời mới được khai thông.

Bài đọc I, trích từ sách khôn ngoan, ngẫm suy về sự chết với đầy dẫy yếu tố tích cực trong đó. Người công chính (người sống niềm tin vào TC) đón nhận cái chết cách bình thản, nhẹ nhàng, tôi có cảm tưởng họ bước vào sự chết giống như người bước qua ngưỡng cửa của niềm hy vọng, viên mãn : “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa. Đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với những người không hiểu biết thì việc họ từ biệt chúng ta là như đi vào cõi tiêu diệt, nhưng thực ra các ngài sống trong bình an…” (Khn 3, 1 – 3).

Thành ngữ “Ở trong tay Chúa” diễn tả sự quan phòng, được bao bọc chở che, được bảo vệ khỏi mọi nguy hiểm xác hồn. CJS, trong lời nguyện hiến tế, đã nhắc lại sự an toàn cho những kẻ được trao phó cho Ngài “ Con đã gìn giữ những kẻ cha đã trao phó cho Con, và không một ai trong chúng phải hư đi” (Jn 17, 11)

Ở trong tay Chúa còn diễn tả sức mạnh quyền năng trong công trình sáng tạo và cứu chuộc. Chính cánh tay hùng mạnh Chúa sáng tạo muôn loài và còn kỳ diệu hơn nữa tay ngài đã cứu chuộc Israel cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.

Ở trong tay Chúa không gì khác hơn là được hưởng tình yêu và sự sống thần linh một cách trọn vẹn, vô lường.

Thật hạnh phúc biết bao cho những ai cư ngụ trong bóng cánh tay Ngài. Tư tưởng này còn được nhân lên gấp bội, khi nhìn Thiên Chúa trong tư cách người mục tử nhân lành. Cánh tay ấy, đã từng chống lại sói dữ tấn công đoàn chiên. Cánh tay ấy, đã từng dẫn bao nhiêu chiên lạc trở về. Cánh tay ấy, đã từng vác biết bao con chiên trên vai, trong số đó có bạn, có tôi và có cả thầy An nữa.

Thầy An à, mình hát cho thầy nghe bài : Chúa là mục tử của lm. Nguyễn Sang, bài hát thầy ưa thích nhất (tôi chỉ hát cho thầy An nghe thôi).

Bài trích sách Khôn Ngoan được đọc lên trong thánh lễ an táng, thật là một vùng ánh sáng của niềm hy vọng cho những ai đang buồn sầu vì số phận phải chết và cũng cho những ai đang than khóc người quá cố của mình, nhìn vào đó mà tiến bước trong an bình, vì luôn thâm tín rằng : mọi dang dở kiếp người sẽ được hoàn thành tốt đẹp, tròn trịa trong TC là “Tình Yêu và Sự Sống”.

Bài Tin Mừng tuyên đọc hôm nay là một biện chứng giúp hóa giải những nghịch lý cuộc sống đang đè nặng lương tâm chúng ta. Thân phận hạt lúa mì dạy chúng ta bài học về giá trị cao đẹp của “tình yêu và sự sống”. Sự sống ấy không bao giờ là vật sở hữu của những con người lười biếng, ích kỷ, chỉ trau chuốt lo cho bản thân mình : “Ai chỉ lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Ngược lại, tình yêu và sự sống luôn ban tặng cách phong nhiêu cho những ai đành liều mất mạng sống mình vì CJS và vì Tin Mừng của Ngài.

Bài học từ thân phận hạt lúa mì giúp chúng ta đánh giá mọi thực tại cuộc sống bằng con mắt đức tin : mất để được, chết để sống. Chỉ khi hiểu thấu ý nghĩa cao cả đó, chúng ta mới tìm được sự thanh thản, bình an, trong những nghịch lý, bế tắc, dang dở đè nặng cuộc đời chúng ta. Với niềm phó thác cậy trông hãy sống lời khuyên của thánh Phêrô : “mọi lo toan hãy trút cả cho Người, vì Người lo cho anh em” (1Pr 5, 7).

Anh chị em thân mến, từ tấm bé thầy An đã có ước muốn dâng mình cho Chúa làm tông đồ trong chức linh mục, nhưng vì hoàn cảnh lịch sử của đất nước thời bấy giờ, thầy cứ phải chờ đợi mãi thôi. Đã có lần bề trên giáo phận tuyển chọn thầy vào chủng viện để bổ túc kiến thức cho sứ vụ linh mục, rồi cũng dở dang không thành. Trong hội thầy giảng Anrê Phú Yên, thầy có năng lực nhiều mặt, được bề trên sai đến phục vụ nhiều giáo xứ, đùng một cái thầy đổ bệnh phải bỏ dở dang công việc đang làm về dưỡng bệnh tại nhà hưu, cho đến hôm nay, Chúa gọi thầy về với ngài.

Cuộc đời thầy thật nhiều dang dở, thật nhiều thánh giá, nhưng trong Đức Kitô mọi dang dở sẽ nên hoàn thiện, được mài dũa tròn trịa mỹ mãn vì tất cả đã được kitô hóa, tất cả đã nên đồng hình đồng dạng với Chúa.

Bí tích thánh thể sẽ được cử hành trong giây lát. Tại đó CJS sẽ thần hóa cái dang dở, cái tầm thường, của mỗi chúng ta, cả của thầy An trong đời thường, thành mình, máu thánh của Ngài. Nơi mình thánh Chúa, liệu anh chị em còn nhận ra đâu là phần của mình nữa không ? Thưa không ? Vì đó là chính Chúa. Nhưng nếu không có hoa màu ruộng đất và lao công chúng ta, lấy gì làm chất liệu cho việc cử hành trọng đại này đây.

Nếu bánh rượu và lao công con người, nhờ Thánh Thần, trở nên mình máu thánh Chúa, thì những dang dở cuộc đời chúng ta cũng sẽ được hoàn thành mỹ mãn trong Đức Kitô Phục Sinh. Đó chính là : Trời mới, đất mới, Chúa hứa tặng cho bạn, cho tôi và cho thầy An.

Xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho thầy Gio-an Baotixita và cũng lấy những lời ấy chia sẻ và an ủi nhau trong biến cố tang chế này. Amen.

Lm Giuse Phạm Ngọc Khuê

]]>
Lễ Đức Mẹ Mân Côi: Hội Thánh cầu nguyện với Kinh Mân Côi https://tintuc5.samba.vn/le-duc-me-man-coi-hoi-thanh-cau-nguyen-voi-kinh-man-coi/ Tue, 12 Nov 2019 05:48:49 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=488 Lễ Đức Mẹ Mân Côi

Hội Thánh cầu nguyện với Kinh Mân Côi

Khi nói đến Đức Mẹ Mân Côi, chắc hẳn ai cũng nhớ tới những lần Dân Chúa nhờ cầu nguyện với Kinh Mân Côi mà chiến thắng những sai lầm hoặc hận thù đang tấn công Hội Thánh. Chẳng hạn khi bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp vào thế kỷ XII, chính Đức Mẹ tay cầm tràng hạt đã chỉ cho thánh Đaminh cách đọc Kinh Mân Côi, và thánh nhân đã phổ biến cho các tín hữu, nhờ đó người lạc giáo đã từ bỏ sự lầm lạc để trở về với chân lý.

Trước sức mạnh của những kẻ thù nghịch xâm chiếm những miền đất Công giáo ở châu Âu, cũng nhờ lần hạt Mân Côi mà dân Kitô giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepante vào đúng ngày 7-10-1571, hay tại bờ biển Hy Lạp năm 1716.

Đằng sau câu chuyện của những chiến thắng ấy, là bóng dáng của một người Mẹ luôn đồng hành với Hội Thánh trong suốt chiều dài của lịch sử, đặc biệt trong những lúc khó khăn thử thách. Và đằng sau câu chuyện của những cuộc chiến, là hình ảnh của một Hội Thánh cầu nguyện, chuyên chăm và sốt sắng, bên cạnh Đức Maria là Mẹ của mình.

Bài đọc 1 kể lại : sau khi Đức Giêsu lên trời, các Tông đồ trở về Nhà Tiệc ly, cùng cầu nguyện với Đức Mẹ để chờ đón Chúa Thánh Thần trước khi lên đường đi khắp thế gian thi hành sứ mệnh Phúc Âm hóa. Hơn ai hết, Đức Mẹ đã có kinh nghiệm về sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần ; Mẹ cũng là người có kinh nghiệm về sự cầu nguyện trong thâm sâu của cõi lòng để đón nhận ý Chúa và thực thi với lòng yêu mến và tín thác. Mẹ hiện diện trong Nhà Tiệc ly để dạy các Tông đồ cầu nguyện, để chỉ cho các Tông đồ hiểu rằng cầu nguyện là công việc ưu tiên hàng đầu, trước khi dấn thân vào các hoạt động Phúc Âm hóa. Bên cạnh những hình ảnh đẹp về một Hội Thánh truyền giáo, về một Hội Thánh của người nghèo, khung cảnh nhà Tiệc ly là một hình ảnh đẹp về một Hội Thánh cầu nguyện.

Ước gì ngày nay Đức Mẹ cũng dạy chúng ta về sự ưu tiên của cầu nguyện. Thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II khẳng định : “Tương lai của việc truyền giáo tuỳ thuộc phần lớn vào đời sống chiêm niệm”. ĐTC Phanxicô nói : nếu muốn đi loan báo Tin Mừng, chúng ta cần đời sống cầu nguyện, để “có Đức Kitô cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình” ; nếu không, “chúng ta thiếu sinh lực và đam mê. Một người không có xác tín, không phấn khởi, không chắc chắn và không yêu, người ấy chẳng thuyết phục được ai”.

Nói tới cầu nguyện, xem ra là điều lạc lõng và khó thực hiện trong thời đại của tốc độ vội vã, của hoạt động không ngừng, của ồn ào nhộn nhịp. Nhưng chính vì thế, Kinh Mân Côi lại rất phù hợp cho các tín hữu thời đại hôm nay.

Kinh Mân Côi được gọi là việc đạo đức bình dân, không phải vì là lời cầu nguyện tầm thường, nhưng vì là lời kinh dễ thực hiện của toàn thể Dân Thiên Chúa : của Đức Giáo hoàng, các giám mục và linh mục, của tu sĩ và giáo dân, của người già người trẻ, nam cũng như nữ. Đó không phải chỉ là lời cầu nguyện của người ít học, mà cũng là lời kinh của các nhà bác học và trí thức như Blaise Pascal, André-Marie Ampère, Louis Pasteur ; là lời kinh của tín hữu bình dân, nhưng cũng là lời kinh của nhà thần học ; là lời kinh của người tội lỗi cũng như của bậc đại thánh, của người sống đời chiêm niệm cũng như của người dấn thân trong hoạt động tông đồ.

Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện có thể đọc mọi nơi mọi lúc. Đó là lời kinh trong bầu khí trang nghiêm trước Thánh Thể khi cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm Chúa Giêsu, mà cũng là lời kinh trên đường đi chợ hoặc ra đồng ruộng hay đến công ty xí nghiệp ; là lời kinh trong giờ kinh tối của gia đình, và cũng là lời kinh trong lúc đợi khám bệnh hay đứng bên vệ đường chờ xe. Với Kinh Mân Côi, các tín hữu trở thành những nhà chiêm niệm bên vệ đường, nối kết đất với trời. Thật đẹp và quí biết bao.

Lần hạt Mân Côi không phải là những lời lải nhải ngoài môi miệng như cái máy, mà đó là lời cầu nguyện của trọn vẹn hồn xác con người. Cả thân xác và tinh thần cùng tham gia cầu nguyện : miệng đọc lâm râm, mắt chiêm ngắm, tay lần hạt, thân mình đứng quì hay ngồi tùy theo từng mầu nhiệm, đang khi đó thì trí nhớ và trí tưởng tượng hình dung một biến cố trong lịch sử cứu độ để chiêm ngắm, trí hiểu suy niệm về thánh ý Thiên Chúa, còn trái tim rung những nhịp đập cảm mến tình thương của Ba Ngôi, để rồi cuối cùng ý chí quyết tâm biến đổi cuộc sống và hiến thân cho chương trình cứu độ. Như thế, mỗi lần một chút, mỗi ngày một chút, nhờ Đức Mẹ, những tư tưởng và tâm tình của Chúa Giêsu thấm dần vào con người Kitô hữu và biến đổi từ bên trong để họ ngày càng nên giống Chúa, tựa như giọt sương thấm dần vào cây lan xấu xí để đến lúc sẽ nở ra những cánh hoa muôn màu xinh đẹp.

Tuy đơn sơ, Kinh Mân Côi lại là bản tóm của toàn bộ Kinh Thánh, từ những lời hứa trong Cựu Ước được nhắc lại trong biến cố Truyền tin, đến mầu nhiệm Giáng sinh và thời kỳ ẩn dật của Chúa Giêsu, từ lời rao giảng và các biến cố trong ba năm rao giảng, đến cuộc Khổ nạn đau thương và Phục sinh vinh quang, từ thời gian của Chúa Giêsu đến thời gian của Hội Thánh dưới tác động của Chúa Thánh Thần, từ cuộc lữ hành trần thế của nhân loại đến chung cuộc vinh quang nơi thiên quốc được báo trước nơi mầu nhiệm Đức Mẹ hồn xác lên trời. Quả thực đó là bản tóm của toàn thể lịch sử cứu độ.

Nếu nói về lời đọc, thì Kinh Mân Côi vừa có Kinh Lạy Cha là lời kinh đặc trưng của Kitô hữu do chính Chúa Giêsu dạy, vừa có lời chúc tụng của Hội Thánh dâng lên Chúa Ba Ngôi trong Kinh Sáng danh ; là lời chúc tụng của thiên thần kính chào Đức Mẹ, mà cũng là lời khẩn cầu của loài người xin Đức Mẹ Chúa Trời thương đến “chúng con là kẻ có tội”. Khi đọc Kinh Mân Côi, các tín hữu xin ơn trợ giúp cho cuộc chiến đời này, nhưng nhất là cho cuộc chiến quyết liệt trong giờ lâm tử ; vừa xin ơn tha tội cho Hội Thánh lữ hành trên trần gian để không một tín hữu nào sa hỏa ngục, vừa cầu nguyện cho các tín hữu còn đang chịu thanh luyện trong luyện ngục chỉ còn biết cậy trông vào lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu.

Mỗi chục kinh Mân Côi đều hướng tâm hồn về một mầu nhiệm cứu độ để chiêm ngắm và chúc tụng Thiên Chúa, đồng thời cũng là lời cầu khẩn xin Chúa ban ơn cho mọi người. Chúng ta cầu xin cho mình được bắt chước các nhân đức của Chúa, như khiêm nhường, khó nghèo, vâng phục, hy sinh đền tội, cùng vác thánh giá và cùng chết với Chúa để cùng sống lại với Chúa. Nhưng chúng ta cũng còn cầu cho các nhu cầu của Giáo hội và toàn thể nhân loại. Chẳng hạn khi ngắm Năm Sự Vui, chúng ta nhớ đến các gia đình trẻ, những bà mẹ đang mang thai, những người trẻ đang phân định ơn gọi ; chúng ta cầu xin cho việc bảo vệ sự sống, cho các trẻ em bị bỏ rơi, cho việc giáo dục thanh thiếu niên, cho đời sống hôn nhân và gia đình. Khi ngắm Năm Sự Sáng, chúng ta nhớ đến cuộc khủng hoảng về sự thánh thiện trong Dân Chúa và cầu cho mọi người sống thánh thiện theo ơn gọi của mình, cầu cho các gia đình đang gặp khó khăn, cho các Kitô hữu nguội lạnh không còn thực hành đức tin. Khi ngắm Năm Sự Thương, chúng ta cầu cho các dân tộc đang đi trên con đường Thánh giá tăm tối của lịch sử khi phải gánh chịu những cuộc chiến lâu dài, cầu cho công lý và hòa bình trên thế giới, cho các Kitô hữu đang chịu bách hại vì đức tin, cầu cho người nghèo khổ và bệnh nhân, cho người bị gạt ra bên lề xã hội hay bị quên lãng. Khi ngắm Năm Sự Mừng, chúng ta cầu cho công cuộc Phúc Âm hóa, cho các Kitô hữu vâng theo tác động của Chúa Thánh Thần để sống đời chứng nhân giữa lòng thế giới, biết loan báo niềm hy vọng Phục sinh cho nhân loại khổ đau, biết xây dựng thế giới theo đường hướng của Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.

Như lịch sử chứng minh, Kinh Mân Côi tuy đơn sơ khiêm tốn nhưng hiệu quả lại lớn lao không ngờ. Kinh Mân Côi tựa như những viên sỏi của cậu bé chăn chiên Đavít có khả năng chiến thắng sức mạnh gươm giáo của tên khổng lồ Gôliat. Có rất nhiều Gôliat của thời đại đang tấn công nhân loại : Gôliat của tiền bạc của cải, Gôliat của lạc thú hưởng thụ, Gôliat của tự do lệch lạc, Gôliat của quyền lực độc tài, Gôliat của những ý thức hệ sai lầm. Đứng trước sức mạnh của những Gôliat ấy, chúng ta thấy mình quá nhỏ bé và có nguy cơ bị nuốt trửng. Nhưng 200 viên sỏi của tràng hạt Mân Côi chính là sức mạnh của “Thiên Chúa các đạo binh” để chiến thắng sự dữ trong thế gian.

Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi nhắc nhở toàn thể Hội Thánh về sứ mạng cầu nguyện. Cùng với sứ mạng rao giảng Tin Mừng, sứ mạng phục vụ người nghèo khổ, Hội Thánh cũng có sứ mạng cầu nguyện. Một Hội Thánh cầu nguyện với Kinh Mân Côi sẽ có khả năng canh tân chính mình và làm thay đổi thế giới.

Cũng như Đức Mẹ đã cùng với các Tông đồ cầu nguyện trong Nhà Tiệc ly, ngày nay xin Mẹ cũng đồng hành và nâng đỡ Hội Thánh trong sứ mạng cầu nguyện.

+ Gm. Giuse Nguyễn Năng

]]>
Suy niệm loan báo Tin Mừng (20.10.2019 – Chúa Nhật Tuần 29 TN, Khánh Nhật Truyền Giáo) https://tintuc5.samba.vn/suy-niem-loan-bao-tin-mung-20-10-2019-chua-nhat-tuan-29-tn-khanh-nhat-truyen-giao/ Tue, 12 Nov 2019 05:45:27 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=475 Suy niệm loan báo Tin Mừng (20.10.2019 – Chúa Nhật Tuần 29 TN, Khánh Nhật Truyền Giáo)

(Trích 31 bài giảng của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)

Lời Chúa:

BÀI ĐỌC I: Xh 17, 8-13

Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: “Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi”. Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.

BÀI ĐỌC II: 2 Tm 3, 14 – 4, 2

Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.

Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Đức Kitô, Đấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn.

PHÚC ÂM: Lc 18, 1-8

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: “Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù’. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: ‘Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc’ “.

Rồi Chúa phán: “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” 

Suy niệm

Vì rơi vào ngày Chúa Nhật mừng lễ Khánh Nhật Truyền Giáo, bài đọc I hôm nay với bài tường thuật về trận chiến giữa quân Amalech và Ítraen có thể gây bối rối cho những ai muốn nói về tầm quan trọng của ơn gọi truyền giáo của người Kitô hữu. Bài đọc có thể bị hiểu sai như là kích động thánh chiến hay kêu gọi việc chiêu dụ cực đoan. Trái lại, truyền giáo nhắm tới việc công bố cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu và sự hòa giải với Thiên Chúa được Đức Giêsu cống hiến. Mục đích của truyền giáo là làm chứng cho Đức Giêsu, thông truyền Tin Mừng của Người, xây dựng Hội Thánh của Người, trong một bầu khí huynh đệ chân thành và tôn trọng tự do đích thực trong việc cùng nhau tìm kiếm sự gia tăng hiệp thông và công bằng trên thế giới. Chưa kể đến việc Tin Mừng cũng dạy chúng ta, qua gương sáng của Đức Giêsu, là phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại chúng ta. Những người được rửa tội và được sai đi không có một sản phẩm để bán hay áp đặt cho thế giới. Là Hội Thánh của Đức Kitô trong sứ mạng truyền giáo, người tín hữu lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa để công bố, làm chứng và thông truyền sự sống ấy cho sự cứu rỗi của bản thân mình và của mọi người khác.

Bản văn Kinh Thánh của sách Xuất Hành 17:8- 13 cho chúng ta ký ức về một giai đoạn trong đó Ítraen, một dân lánh nạn đang đi tìm một mảnh đất để định cư, bị đe dọa diệt vong và phải dấn mình vào một cuộc đấu tranh cho sự tồn vong của mình. Chỉ cậy dựa vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, với niềm tin chắc chắn giành chiến thắng cũng như được giải phóng khỏi đất Ai Cập, dân tộc Ítraen lưu giữ ký ức về trận chiến này, và về các trận chiến khác sau đó, làm bằng chứng cho lòng tin của họ vào vị Thiên Chúa thật, là Chúa trời đất, Thiên Chúa các đạo binh, Đấng an ủi kẻ yếu đuối và giải phóng những người bị áp bức. Đây là lời ca tụng mà thánh vịnh gia, với lòng tin cậy và biết ơn, dâng lên cho Đức Chúa, Đấng bảo vệ Ítraen: Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?

Ơn phù hộ tôi đến từ ÐỨC CHÚA
là Ðấng dựng nên cả đất trời. (Tv 121:1-2)

Các yếu tố gây hấn, oán ghét và hận thù đi kèm theo cách diễn giải này của Cựu Ước về đức tin trong lịch sử cần phải được thanh tẩy dần dần qua các thế kỷ bởi dân thánh, như các ngôn sứ và các bậc khôn ngoan, và cuối cùng bởi Chúa Giêsu, Hoàng tử Hòa Bình và Công Lý, Đấng đã được các ngôn sứ nhìn thấy trước và chờ đợi hàng thế kỷ. Những gì từng được hiểu như là sức mạnh và bạo lực trong việc tiêu diệt các ngẫu tượng và các dân ngoại, thì nay trong Đức Giêsu, nó trở thành một niềm đam mê nóng bỏng và một tình yêu thương bừng cháy đối với việc cứu rỗi mọi người.

Thập giá Chúa Giêsu là nơi mà sự ác đã bị đánh bại bởi tình yêu của Đấng chết vì chúng ta, chết thay cho chúng ta, trải nghiệm cái chết của chúng ta như là của chính Người. Người cũng chịu chết để cứu độ những kẻ bách hại và những kẻ thù của Người. Mọi sự oán thù bị tiêu diệt bởi Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, nơi Người và trong sự hiệp thông Ba Ngôi, sự oán thù và sự chết càng khơi dậy tình yêu lớn hơn và lòng thương xót hiệu quả hơn. Thiên Chúa đã huỷ diệt tội lỗi, sự bất công và sự chết của chúng ta bằng cách mang lấy tất cả những điều ấy nơi chính bản thân Người, và đã tiêu diệt chúng nhờ tình thương vô biên của Người. “Cái chết của Đức Kitô trên Thập Giá là đỉnh điểm của việc Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình, trong đó Thiên Chúa tự hiến chính mình để nâng con người lên và cứu độ họ. Đó là tình yêu trong hình thái triệt để nhất. Trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, sự giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết đã được thực hiện” (ĐGH Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, số 9). Tân Ước và toàn bộ Sách Thánh giới thiệu cho chúng ta và dạy dỗ chúng ta về hành động cứu độ này của Thiên Chúa trong thế giới.

Trong viễn tượng này, bài đọc 2 cho chúng ta thấy Thánh Phaolô dạy cho Timôthê biết tầm quan trọng của Sách Thánh như thế nào: “từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Ðức Kitô Giêsu” (2 Tm 3:15). Trên thực tế, Timôthê đã học Sách Thánh từ thời thơ ấu, giống như mọi bé trai Do Thái; kể từ đó, các trẻ em Kitô hữu cũng học Sách Thánh, với sự trợ giúp của cha mẹ các em và cộng đoàn. Timôthê ở tuổi thanh niên đã cùng với cả gia đình mình đón nhận đức tin trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Tông Đồ Phaolô và sau này trở thành một thành viên trong đoàn truyền giáo của Phaolô. Là con của một người mẹ Do Thái và người cha Hy Lạp, Timôthê đã lãnh nhận từ thời niên thiếu một nền giáo dục tôn giáo sâu xa và vững chắc từ bà ngoại anh là cụ Lôít và mẹ anh là bà Êunikê, hai người phụ nữ đã dạy anh hiểu biết Sách Thánh. Đây là điều cần thiết, vì Sách Thánh được Thiên Chúa linh hứng, và nếu được cắt nghĩa tốt (thay vì bị sửa đổi và xuyên tạc, như Thư 2 của Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta; x. 2 Pr 1:19-21), Sách Thánh khích lệ chúng ta làm việc lành và xây dựng chúng ta trong sự công chính và thánh thiện. Nhiệt tình truyền giáo chân chính không phải là thái độ chiêu dụ bằng bạo lực, nhưng là ước muốn một trái tim huynh đệ đầy tràn Đức Kitô và được Thánh Thần thúc đẩy để hợp tác vì sự cứu rỗi và hạnh phúc của mọi người, mọi nhóm sắc tộc, bằng cách chia sẻ những giá trị đạo đức và văn hóa, những niềm vui và hy vọng, tìm kiếm một sự sống viên mãn và bình an đích thực, là chính Đức Giêsu Kitô đã chết và phục sinh. Vì lý do này, Thánh Phaolô mạnh mẽ khuyên nhủ Timôthê hiến toàn thân xác và linh hồn cho việc giảng dạy Lời Chúa, trong khi đợi chờ ngày Quang Lâm của Chúa.

Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô thường xuyên nhắc đến sự phục vụ của Timôthê cho công việc rao giảng Tin Mừng. Là người luôn sẵn sàng và chăm chú, anh quảng đại và yêu mến đồng hành với các cộng đoàn Hội Thánh. Phaolô nhắc các tín hữu Philipphê nhớ đến chứng tá và lòng trung thành của Timôthêô: “Nhờ Chúa Giêsu, tôi hy vọng có thể sớm cử anh Timôthê đến với anh em… Anh em biết: anh Timôthê đã chứng tỏ mình là người có giá trị, bởi vì anh ấy đã cùng với tôi phục vụ Tin Mừng, như con với cha” (Pl 2:19.22). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, Thánh Phaolô nhấn mạnh lòng can đảm và đặc sủng truyền giáo của Timôthê: “Và chúng tôi đã phái anh Timôthê, người anh em của chúng tôi và cộng sự viên của Thiên Chúa trong việc loan báo Tin Mừng Ðức Kitô; anh đến để làm cho anh em được vững mạnh, và khích lệ đức tin của anh em, khiến không ai bị nao núng vì các nỗi gian truân ấy” (1 Th 3:2-3). Do đó, Timôthêô sẵn sàng đi và cần mẫn phục vụ các giáo hội mới lập, làm sáng tỏ những mối hoài nghi của họ và nâng đỡ các cố gắng của họ. Lời Thiên Chúa là sức mạnh và là bạn đồng hành của anh.

Câu đáp ca Allêluia, với giọng trữ tình và lời lẽ trau chuốt, là một thánh thi tuyệt vời ca tụng Lời của Thiên Chúa, được mô tả là “sống động và hiệu quả”, vì nó thấm sâu vào lòng chúng ta như một thanh gươm hai lưỡi. Như lời thánh vịnh gia, Chúa dò thấu lòng trí chúng ta và thấy rõ mọi đường đi nước bước của chúng ta. Cũng vậy, chúng ta thấy ẩn dụ thanh gươm trong thư Êphêsô; được gọi là gươm của Thần Khí, Lời Thiên Chúa đầy sức mạnh thấm sâu vào tâm hồn (x. Ep 6:17). Một vũ khí ác liệt của chiến tranh cũng được dùng làm biểu tượng cho một cuộc chiến đấu khác, đó là cuộc chiến đấu thiêng liêng tạo nên sự sám hối và hoán cải, niềm vui và sự sống mới, lòng nhân hậu và trung thành. Đây là những hoa quả của Lời Thiên Chúa sống động và thân thiết, hoa quả của Đức Khôn Ngoan thấu suốt mọi sự, thấm nhuần mọi sự và phán xét mọi sự, hiện diện trong tâm khảm chúng ta và chiếu sáng chói lóa khiến không ai có thể bị che khuất. Tin Mừng Đức Giêsu, sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, là thần khí và sự sống. Tin Mừng này làm cho kẻ chết sống lại, phục hồi nhân phẩm cho những người bị loại trừ, ban niềm vui cho người sầu khổ, đổi mới mọi tạo vật, biến đổi, thánh hóa và ban sự sống đời đời. Tuy nhiên, khi Lời soi sáng, Lời cũng đồng thời xét xử, vì Lời gỡ bỏ các mặt nạ của linh hồn, tiết lộ sự thật được bày ra trong lương tâm. Trong trái tim của người được Thần Khí của Chúa Phục Sinh đổ vào, sự phán xét của Lời luôn luôn là để ban ơn tha thứ và thanh tẩy.

Dụ ngôn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật hôm nay mô tả cảnh một bà góa bị một quan tòa tham ô từ chối quyền được tự biện hộ, một trải nghiệm mà nhiều người trên thế giới phải chịu ngày nay. Câu chuyện dụ ngôn được đặt trong khung cảnh “trong một thành kia” (Lc 18:2), một thành không có tên vì những điều được kể có vẻ xảy ra ở khắp nơi – luật pháp phải được thi hành cho những kẻ thù của quan tòa; còn đối với các bạn bè của quan tòa, chỉ cần diễn giải.

Người đàn bà góa trong dụ ngôn không phải là bạn của quan tòa, vì thế chị không được quan tòa lắng nghe. Bà góa này chồng đã chết, và trong xã hội Palestin ở thế kỷ 1, bà không được quyền thừa kế gia sản của người chồng quá cố. Các bà góa dễ bị tổn thương về kinh tế và dễ bị bóc lột, như Đức Giêsu đã nặng lời nhắc nhở chúng ta khi Người tố cáo các kinh sư xâu xé tài sản của các bà góa (Lc 20:46-47). Vì không có luật sư, bà góa phải tự biện hộ chống lại đối thủ của bà. Đức Giêsu phơi bày lập luận trong lòng ông quan tòa bất lương, người không quan tâm tới các lời phàn nàn của bà góa và không thèm biết bà là ai. Ông ta không kính sợ Thiên Chúa, cũng chẳng đoái hoài gì tới lợi ích của người dân. Người đàn bà góa nhất quyết không để mình bị làm ngơ, kể cả trước một ông quan tòa bất lương, cho tới khi án kiện của bà được giải quyết có lợi cho bà.

Đức Giêsu dùng các dụ ngôn để dạy chúng ta về nhu cầu phải cấp bách và liên tục cầu nguyện. Nếu kinh nguyện là trái tim của sứ mạng Hội Thánh, đó là vì trong mối quan hệ của cá nhân và của Hội Thánh với với Thiên Chúa (phụng vụ), những con người và những cộng đoàn được đổi mới nhờ ơn cứu độ Đức Giêsu ban cho chúng ta. Câu hỏi của người về đức tin khi Người sẽ đến lại có vẻ như chỉ ra một mối quan tâm của Người về hiệu quả của sứ mạng sẽ được thi hành và tính chân thực của chứng tá của các môn đệ truyền giáo. Những môn đệ này, được tháp nhập vào Mầu Nhiệm Vượt Qua nhờ phép rửa, được sai vào thế giới rong tư cách Hội Thánh của Đức Kitô, cộng đoàn của những người được cứu chuộc, là hạt giống và khởi đầu của Nước Trời hầu cho toàn thể lịch sử và toàn thể nhân loại có thể được biến đổi và cứu chuộc. Hiệu quả của việc cầu nguyện liên tục, của sự liên lỉ van xin, của việc bền tâm tìm kiếm lòng yêu mến sự thật và công lý, giúp tôi luyện khả năng truyền giáo của người môn đệ. Chỉ những ai kiên tâm cầu nguyện mới đặt Đức Kitô vào tâm điểm đời sống của họ và của sứ mạng được trao cho họ, giúp tăng cường đức tin. Chỉ những ai kiên trì cầu nguyện mới trở nên chăm chú và có khả năng lắng nghe, thể hiện và khám phá ra những nhu cầu và những đòi hỏi của sự cứu rỗi vật chất và thiêng liêng luôn hiện diện trong con tim của loài người hôm nay.

Nguồn: Uỷ ban loan báo Tin Mừng

]]>
Thông báo: Chương trình Lễ Kính Đức Mẹ Sầu Bi tại Giáo xứ Đồng Đinh – 2019 https://tintuc5.samba.vn/thong-bao-chuong-trinh-le-kinh-duc-me-sau-bi-tai-giao-xu-dong-dinh-2019/ Tue, 12 Nov 2019 04:20:05 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=435 THÔNG BÁO

CHƯƠNG TRÌNH LỄ KÍNH ĐỨC MẸ SẦU BI
TẠI GIÁO XỨ ĐỒNG ĐINH
Năm 2019

***

Thời gian: Ngày 14, 15, 16/9/2019

Địa điểm tại: Giáo xứ Đồng Đinh, giáo phận Phát Diệm

Chủ đề: VỀ BÊN MẸ

Điểm nhấn: SÁM HỐI VÀ NÊN THÁNH

Thành phần tham dự, cử hành: Đức Cha giáo phận, quý cha, quý thầy phó tế, quý tu sỹ, chủng sinh, cộng đoàn dân Chúa và khách hành hương.

  1. BAN TỔ CHỨC

– Trưởng ban tổ chức: Cha Quản Hạt Vô Hốt Gioan.B Nguyễn Công Tráng
– Phó ban tổ chức: Cha An-rê Đào Văn Du
– Các cộng tác viên: Quý cha trong giáo hạt Vô Hốt, quý thầy, quý sơ, quý ban chấp hành 11 giáo xứ hạt Vô Hốt…

  1. CHƯƠNG TRÌNH         
  2. Thứ Bảy ngày 14/9/2019VỌNG CHÚA NHẬT XXIV. TN

15g00 – 15g45’: Chầu Thánh Thể

15g45’-16g30’: Đi Đàng Thánh Giá trên sông

16g30’ – 17g30’: Thánh lễ tại Núi Gò

  1.  Chủ Nhật ngày 15/9/2019CHÚA NHẬT XXIV.TN

Ngày gặp mặt giới trẻ Giáo Hạt Vô Hốt lần thứ V

14g30-15g00: Đón tiếp

15g00 – 16g00’: Chầu Thánh Thể

16g00’ – 16g45’: Thuyết trình

16g45’ – 17g00’: Đón tiếp Đức Cha, Quý Cha và quý khách.

17g00’ – 18g00’: Thánh lễ (Lễ Về Chúa Thánh Thần– Lễ phục Đỏ).

18g00’ – 19g00’:  Ăn tối

19g00’ – 21g00’: Khởi động-Diễn nguyện và Văn nghệ (Tại Núi Gò).

21g00’: Kết thúc.

  1. Ngày 16/9/2019: LỄ ĐỨC MẸ SẦU BI

  7g00’ – 9g00’: Đón tiếp Đức Cha, quý cha và quý khách
                    (Thuyền đón khách từ nhà xứ Đồng Đinh ra Núi Gò)

9g00’ – 9g30’: Nghi thức rước đoàn đồng tế (Đức Cha, quý cha, quý thầy Phó tế, quý tu sỹ, chủng sinh, ban lễ sinh, ca đoàn, hội kèn, hội trống…)

9g30’ – 11g00’ : Thánh lễ

11g00’ – 11g30’: Di chuyển về nhà xứ Đồng Đinh.

11g30’ – 12g30: Ăn trưa .

  Lưu ý:

     – Xin Quý Cha mang lễ phục Trắng
– Xin quý khách hành hương mang Ô (dù).

 Vô Hốt, ngày 16 tháng 8 năm 2019
Linh mục quản hạt Vô Hốt

 Gioan Baotixita Nguyễn Công Tráng

]]>
Giáo xứ Hải Nạp: Hân hoan lãnh nhận Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng https://tintuc5.samba.vn/giao-xu-hai-nap-han-hoan-lanh-nhan-chua-thanh-than-de-loan-bao-tin-mung-2/ Tue, 12 Nov 2019 04:17:41 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=427 Mục đích lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm sức là để: xây dựng Hội Thánh, để loan báo Tin Mừng,  nhất là để hiểu và sống Lời Chúa. Đó là ý nghĩa bài giảng của Đức Tổng Giuse trong Thánh lễ ban Bí tích Thêm sức cho 69 em tại giáo xứ Hải Nạp vào chiều Chúa Nhật XXXII thường niên ngày 10.11.2019.

Giáo xứ Hải Nạp có 1527 tín hữu chiếm hơn 53% dân số trong xã, chủ yếu sống nghề nông là chính.

Như thường lệ, trước giờ lễ, Đức Tổng đã dành nửa giờ để lắng nghe tình hình giáo xứ và ban lời huấn dụ. Sau khi cha quản nhiệm Phêrô Trần Quang Đức chào mừng và trình bày về tình hình sinh hoạt giáo xứ, Đức Tổng Giuse đã đáp lời cám ơn và Ngài cũng chúc mừng giáo xứ Hải Nạp đã có những khởi sắc mới, nhất là với công trình nhà mục vụ sắp hoàn thành. Sau đó, Ngài cũng nhắn nhủ việc chăm lo đời sống gia đình, đồng hành với giới trẻ và đời sống cầu nguyện để đưa giáo xứ Hải Nạp thăng tiến.

Ngài ao ước một điều trong năm 2020: tập suy gẫm Lời Chúa, có thể bớt đi vài phút đọc kinh để đọc Lời Chúa. Ngài nhấn mạnh nếu không biết suy gẫm Lời Chúa, không sám hối, cải thiện đời sống, kết hợp với Chúa qua đời sống nội tâm thì dù có kèn trống rầm rộ, đi lễ đông, cũng sẽ không tránh khỏi nguy cơ lung lạc Đức tin như các nước phương Tây.

Phần cuối bài huấn dụ, Đức Tổng chia sẻ về định hướng mục vụ giới trẻ theo tinh thần Thư Chung của HĐGM-VN : Đồng hành với giới trẻ hướng tới phát triển toàn diện về thể lý, tâm lý, tri thức và tâm linh. Ngài bày tỏ nỗi ưu tư về giới trẻ Việt Nam trước các tệ nạn đang hủy hoại tương lai đất nước như: ma túy, rượu chè cờ bạc, game, gian dối…vv.

Sau giờ huấn đức, Đức Tổng Giuse cử hành Thánh lễ kính Chúa Thánh Thần và ban Bí tích Thêm Sức cho 69 em thiếu nhi trong xứ. Cùng đồng tế với Ngài có quý cha trong hạt Bạch Liên.

Phần bài giảng, Đức Tổng mời gọi cộng đoàn cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự xuống cách riêng trên các em chịu phép Thêm sức. Bằng một vài câu hỏi gợi ý, Ngài đã cho mọi người hiểu mục đích lãnh nhận Chúa Thánh Thần hôm nay là để: xây dựng Hội Thánh, để loan báo Tin Mừng, nhất là để hiểu và sống Lời Chúa.

– Điều thứ nhất: xây dựng Hội thánh. Mỗi người được Chúa ban cho một ơn khác nhau, khả năng khác nhau để thi hành sứ mạng của mình trong Giáo hội như Lời Thánh Phaolô nói : từ ơn cầu nguyện đến ơn tham gia các ban ngành phục vụ trong cộng đoàn…vv.

– Điều thứ hai: lãnh nhận Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Đức Tổng nhắc lại nhiều lần ý tưởng đi Đạo không phải là để lên Thiên Đàng một mình, nhưng là để loan báo Tin Mừng cho anh chị em chưa biết Chúa, là đem Chúa đến cho những người nghèo khổ, bệnh tật…vv. Đó là công việc bác ái cao cả, quan trọng hơn các việc xây dựng nhà thờ.

– Điều thứ ba Chúa Thánh Thần giúp cho mỗi người hiểu Lời Chúa và sống Lời Chúa. Đức Tổng nhắc lại đoạn Tin Mừng mà cộng đoàn vừa nghe: Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy…(…). Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 21-26). Chúa Thánh Thần giúp cho người tín hữu nhớ Lời Chúa khi đi làm, khi đi học, khi ở nhà…vv. Qua Bí tích Thêm sức, Chúa Thánh Thần giúp cho các em nhớ tới sứ mạng loan báo Tin Mừng.

Cuối bài giảng, Ngài gợi ý cộng đoàn xét mình :

Tôi đã đón nhận Chúa Thánh Thần để xây dựng Giáo hội, để loan báo Tin Mừng, để hiểu và sống Lời Chúa chưa ? Có bao giờ tôi giúp đỡ người nghèo khổ, chia sẻ Tin Mừng cho người chưa biết Chúa ?

Tiếp theo đó là nghi thức ban Bí tích Thêm sức và Thánh lễ được diễn tiến như thường lệ.

Cuối cùng, một em đại diện dâng lời tạ ơn Chúa, tri ân Đức Tổng, quý cha và tất cả mọi người. Để thể hiện lòng biết ơn, các em cùng dâng lên Đức Tổng lẵng hoa tươi thắm với tình con thảo và quyết tâm thực hành lời Ngài giảng dạy.

]]>
Giới trẻ và TNTT xứ Lãng Vân cầu nguyện Taizé tại vườn thánh https://tintuc5.samba.vn/gioi-tre-va-tntt-xu-lang-van-cau-nguyen-taize-tai-vuon-thanh/ Tue, 12 Nov 2019 04:16:58 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=423 “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy CHÚA,

 muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con” (Tv 130,1-2)

Trong bối cảnh năm mục vụ 2019- Sám hối & Nên thánh, cách riêng trong tháng 11-Cầu nguyện cho các linh hồn, lời Thánh vịnh trên đây thật phù hợp với tâm tình giờ cầu nguyện Taizé của giới trẻ giáo xứ Lãng Vân trong đêm 09.11 vừa qua tại vườn thánh giáo xứ. Dưới sự đồng hành của chính, cha phó, buổi cầu nguyện đã quy tụ khoảng 800 người, trong đó giới trẻ chiếm khoảng gần một nửa.

Giữa tiết trời cuối thu, gió se lạnh thổi qua vườn thánh nhưng ai nấy đều cảm thấy được sưởi ấm lạ thường bởi những ánh nến nguyện cầu tha thiết du dương dâng lên trước tòa Thiên Chúa cho các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và mọi người thân yêu. Một cảm giác an bình như tràn ngập trong lòng mỗi người qua lời cầu nguyện thống hối hòa theo tiếng hát.

Ở một góc vườn thánh nhiều người cũng dọn mình lãnh nhận bí tích Hòa giải, một hình ảnh thật ý nghĩa: chính nơi “nghĩa địa” chết chóc này, qua bí tích Hòa giải, tội nhân được giao hòa với Chúa như được phục sinh tâm hồn.

Bất chợt tôi nhìn lên lễ đài (dựng lên từ hôm Thánh lễ ngày 02.11) với một lời Thánh vịnh khác được treo hai bên như câu đối:

“Khúc ai ca Chúa đổi thành vũ điệu,

Mặc cho con lễ phục huy hoàng”.(Tv 29,12).

Nhìn khung cảnh ấy, có lẽ các linh hồn nơi Luyện Ngục cũng được an ủi nhiều. Ước mong ngày càng có nhiều bạn trẻ ý thức hơn về việc cầu nguyện sám hối này.

]]>
Chiếc tủ lạnh chứa đầy xác em bé và “biệt đội săn trộm” hài nhi https://tintuc5.samba.vn/chiec-tu-lanh-chua-day-xac-em-be-va-biet-doi-san-trom-hai-nhi/ Tue, 12 Nov 2019 04:15:35 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=419

Trung bình mỗi tuần, nhóm của Nguyễn Văn Sơn lượm nhặt được chừng 300- 400 hài nhi. đa phần sinh linh bé nhỏ ấy được mọi người tìm thấy trong rác bẩn.

Chiếc tủ lạnh chứa đầy xác em bé và
Một thành viên của biệt đội “trộm” hài nhi phân loại những thi hài mà mình nhặt được.

 

LTS: Tạo hóa cho con người quyền sống và khi chết đi được yên nghỉ theo những cách tôn kính nhất. Thế nhưng, với những hài nhi bị tước quyền sống ngay từ trong bụng mẹ thì còn có số phận không thể phũ phàng hơn.

Nhiều người đặt câu hỏi, ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, nơi tập trung đông dân thì sau khi tước bỏ quyền sống, cả ngàn hài nhi ấy sẽ được chuyển đi đâu, an táng thế nào?

Trả lời câu hỏi đó, chúng tôi đã tận thấy một sự thật kinh hoàng, phần lớn những hài nhi đó được người ta chuyển thẳng vào… bãi rác.

Số phận đã không cho những hài nhi ấy được thành người, chúng phải chết ngay từ trong bụng mẹ hoặc khi mới lọt lòng. Đau đớn hơn, nơi an nghỉ cuối cùng của chúng lại là… bãi rác.

Như đã nói ở bài trước, theo sự thúc giục của lương tri, chàng thanh niên Nguyễn Văn Sơn đã không tiếc thời gian, công sức, và chịu nhiều điều tiếng để đi gom nhặt những hài nhi mà người ta nhẫn tâm vứt bỏ trong thùng rác mang về chôn cất.

Chấp nhận cưới mẹ để bảo vệ… con của người ta

Ngày ở Vinh, hễ nghe tin bạn nữ nào trót dại, lỡ mang bầu mà đang có ý định phá bỏ thì bằng nhiều cách, Sơn tìm đến để động viên, an ủi rồi khuyên cô gái ấy giữ lại giọt máu của mình.

Chính bởi nghĩa cử này mà Sơn suýt thành chồng của một cô gái mà cậu không hề có tình yêu.

Cô gái ấy bởi tin lời đường mật của bạn trai nên đã hiến dâng tất cả. Biết cô có bầu, gã trai kia đã quất ngựa truy phong. Đau đớn, cô gái ấy đã định cứu vớt đời mình bằng cách giải quyết cái thai đã lùm lùm trong bụng.

Hay tin, Sơn vội vàng tìm đến nơi cô ta ở trọ. Sau một hồi thuyết phục không thành, Sơn bảo, nếu em sợ không lấy được chồng thì anh sẽ lấy, con em cứ đẻ ra để anh nuôi.

Mấy ngày đầu, cô gái đó cũng chẳng tin nhưng thấy Sơn nhiệt tình chăm sóc, nâng niu thì đã tin lời Sơn nói.

Sơn chăm người phụ nữ mang bầu này hệt như người chồng hiếm muộn chăm vợ. Để cô gái yên tâm sinh nở, Sơn dẫn cô ta về nhà mình ra mắt. Bố mẹ Sơn ban đầu đã phản đối dữ dội. Tuy nhiên, biết tính con, ông bà cũng đành chấp nhận cảnh đất phải chịu giời.

Chiếc tủ lạnh chứa đầy xác em bé và
Quá đau đớn trước những hài nhi chết thảm, Sơn chấp nhận đánh đổi hạnh phúc của mình để giữ lại sự sống cho một bé trai.

Khi bé trai kháu khỉnh của cô gái chào đời, giữ lời, Sơn rục rịch chuẩn bị mọi thứ cho chuyện trăm năm.

“Thương cô ấy một thì thương đứa bé mười nên em mới liều thế chứ. Tuy nhiên, đến khi chuẩn bị cưới thì cũng thấy lo lo” , Sơn kể.

Điều Sơn lo lắng là không thể đem hạnh phúc thật sự đến cho cô gái đã đau khổ vì lỡ dở ấy bởi giữa hai người chưa bao giờ tồn tại tình yêu.

Thấy Sơn thỉnh thoảng ngồi trầm tư một mình, cô gái ấy đã hiểu ra vấn đề. Một buổi, khi Sơn đi làm, cô ấy đã gói ghém hành lý rồi bồng con ra đi.

Trong lá thư chia tay, cô gái ấy bảo, Sơn là ân nhân của đời cô và cả đời con cô nữa. Nếu không có sự cưu mang của Sơn thì con cô chẳng thể tồn tại trên cõi đời này.

Sơn bảo, sau này, khi kể chuyện của cô gái đó cho một người bạn nghe, anh này đã vô cùng xúc động. Như duyên số sắp đặt, sau một thời gian qua lại thì người bạn này đã cùng cô gái kia thành vợ thành chồng.

Trộm hài nhi – “nghề” nguy hiểm

Công ty nơi Sơn làm việc chuyển ra khu công nghiệp Yên Phong (Bắc Ninh) chừng hơn 2 năm trước.

Sơn bảo, ra khu công nghiệp này, sau khi ổn định chốn ở, chỗ làm thì việc đầu tiên mà Sơn làm đó là đi “khảo sát” tình hình… nạo phá thai.

Chiếc tủ lạnh chứa đầy xác em bé và
Mỗi lần đi nhặt hài nhi, các thành viên trong nhóm của Sơn đều phải che kín mặt để tránh bị mọi người phát hiện.

Vậy là như lần mới chân ướt chân ráo xuống Vinh, cứ sau ca làm việc thì Sơn lại lọ mọ đến các bãi rác để lượm nhặt hài nhi. Thấy làm việc một mình thì… quá tải, Sơn đã tìm đến những công nhân đồng hương để họ trợ giúp.

Sơn tìm cộng sự là những cô gái hiền lành bởi ý nghĩ phụ nữ thì sẵn có tình mẫu tử dù chưa một lần làm mẹ.

Nghe Sơn trình bày ý định của mình, ban đầu những cô gái ấy đều giãy nảy. Thân con gái, đi ra ngoài tối còn giật mình thon thót huống chi đối diện với những sinh linh tội nghiệp mà đa phần thân thể chẳng còn vẹn nguyên.

Nhưng rồi kiên trì vận động, hiểu được việc làm cao cả của Sơn, nhiều bạn trẻ đã gật đầu ưng thuận.

Có được những cộng sự, Sơn bắt đầu triển khai kế hoạch của mình. Các bạn gái được Sơn phân công đến bệnh viện, đến các phòng khám tư để vận động xin những hài nhi mà người ta vừa phá bỏ.

“Có nơi thì sau vài lần vận động thì họ nghe ra, họ đồng ý cho mình. Nhưng cũng có nơi nói thế nào họ cũng không chịu, thậm chí đuổi thẳng cổ”, Sơn kể.

Với những nơi không xin được thì Sơn và mọi người quyết định đánh cắp. Cứ khi đêm xuống, khi phòng khám đó đóng cửa đi ngủ thì các thành viên trong nhóm của Sơn tìm đến.

Nơi nào phòng khám đó vứt rác thải thì nơi đó có hài nhi, kinh nghiệm của Sơn đã chỉ ra điều đó.

Nhóm của Sơn giờ có hơn chục người. Mỗi người được giao “phụ trách” một phòng khám. Và, chẳng ai bảo ai, cứ quá 12 giờ đêm thì lặng lẽ lấy xe máy lên đường “thực thi nhiệm vụ”.

Phi xe đến mục tiêu, vội vàng tấp vào tìm kiếm nếu thấy, hoặc không thấy thứ mình cần tìm thì cũng phải nhanh chóng lên xe dời khỏi hiện trường. Sở dĩ mọi người phải “tác nghiệp” thật nhanh bởi sự chủ nhà phát hiện.

“Nếu họ phát hiện ra thì ngay lập tức lần sau họ sẽ vứt hài nhi ở chỗ khác. Như vậy thì lại mất công theo dõi, lần tìm”, Sơn bảo.

Theo lời một thành viên trong nhóm của Sơn thì công việc của họ còn hơn cả “nghề nguy hiểm”.

“Đêm hôm khuya khoắt lại ôm khư khư bọc “chiến lợi phẩm” thì ai chẳng nghĩ mình là kẻ xấu. Để người ta bắt được thì sẽ no đòn”, thành viên này chia sẻ.

Chiếc tủ lạnh chứa linh hồn và những “mùa” phá thai đau đớn

Chừng 1-2 giờ đêm thì “nhóm đạo chích” của Sơn trở về “đại bản doanh”. Lúc này, họ mới kiểm tra kỹ lưỡng những thứ mà mình lượm được.

Những cô gái vẻ ngoài rụt rè nhút nhát nhưng khi vào việc thì bạo dạn vô cùng. Các cô phân loại những rác bẩn bám theo thi thể hài nhi rồi làm vệ sinh cho những sinh linh tội nghiệp đó.

Khi vệ sinh xong cho các bé, Sơn đặt chúng trước ban thờ rồi thắp nến cầu nguyện. Xong đâu đó thì đặt các bé vào tủ lạnh để bảo quản, tránh côn trùng xâm nhập.

Chiếc tủ lạnh chứa đầy xác em bé và
Chiếc tủ lạnh Sơn và các bạn bảo quản hài nhi được đặt trong phòng.

Cuối tuần hoặc khi tủ lạnh đã đầy thì Sơn cùng mọi người vượt mấy chục cây số đưa các bé đến an táng tại một nghĩa trang ở Sóc Sơn (Hà Nội).

Sơn bảo, bất cứ đêm nào Sơn và mọi người cũng rơi lệ bởi các hài nhi mà mình tìm được. Có đêm, nhóm kiếm được cả trăm em. Có em đã rõ cả chân tay, mặt mũi.

Cũng như nhiều ngành nghề khác, công việc của Sơn và các cộng sự cũng có mùa bận rộn. Sơn gọi là mùa bởi những khi ấy, hài nhi bị ném vào thùng rác nhiều hơn.

Theo đó, cứ Trung thu, Valentine, ngày 8-3 qua đi độ hơn tháng thì mọi người tất bật bởi có vô số những hài nhi phải rời xa bụng mẹ.

“Trung thu là tết thiếu nhi, mà sao người lớn cứ đi chơi nhiều, chơi nhiều rồi lại làm liều…” , Sơn đọc lại bài đồng dao bằng giọng buồn buồn.

Theo Sơn thì những hài nhi xấu số trên đa phần là của công nhân. Sơn khẳng định điều đó là bởi cứ đến cuối tháng, khi các doanh nghiệp đồng loạt trả lương thì lượng hài nhi mà nhóm Sơn tìm được tăng đột biến.

“Công nhân đa phần là nghèo, chỉ khi có tiền thì họ mới dám đi phá thai thôi”, Sơn chua chát.

Bao giờ trong rác hết… người!?

Là công nhân kỹ thuật nên lương của Sơn cao ngất. Tuy nhiên, cách đây vài tháng, Sơn đã phải nghỉ làm. Sơn bảo, trước đây, biết việc Sơn đang làm, anh em trong công ty đã tạo điều kiện để Sơn “trốn việc” mỗi khi có ai đó báo ở chỗ này, chỗ kia có hài nhi.

Tuy nhiên, thời gian gần đây, bởi lượng việc nhiều nên Sơn không còn được ưu ái nữa.

“Cũng đã mấy lần em định từ bỏ việc đi tìm hài nhi để tập trung vào công việc nhưng không được. Nói thật, cứ khi em có ý định đó thì đêm không tài nào ngủ được”, Sơn thật thà chia sẻ.

Sơn bảo, Sơn đang tổ chức lại bộ máy hoạt động của nhóm và một vài tháng nữa, khi tất cả mọi thứ đã đi vào ổn định thì cậu lại tiếp tục tìm việc làm.

Chiếc tủ lạnh chứa đầy xác em bé và
Một nữ công nhân khi có bầu đã được nhóm của Sơn cưu mang và hạ sinh một bé gái bụ bẫm.

Theo Sơn thì công việc của em có thể chậm vài tháng, thậm chí vài năm. Nhưng việc đón các sinh linh tội nghiệp kia thì không thể chậm trễ một phút, một giây. Nằm lẫn trong rác những sinh linh tội nghiệp dễ thành mồi cho chó, mèo hoang dại.

Ở Bắc Ninh, nhiều lần Sơn đã phải đóng vai ông bố bất đắc dĩ. Căn nhà, nơi Sơn và mọi người ở nhiều khi là nơi nương thân của các bà bầu vì tình mà ôm hận. Tới đây, họ được Sơn và mọi người chăm sóc, chờ cái thai trong bụng khai hoa nở nhụy.

Khi những bà bầu ấy lâm bồn, Sơn lại lóc cóc đưa họ đến bệnh viện. “Năm vừa rồi, em dính luôn phải hai bà đẻ mổ. Khổ, tốn cả mấy chục triệu bạc. Có lần thì em phải cắm xe mới có tiền viện phí” , Sơn kể.

Sơn bảo, đêm nào đi trộm hài nhi, Sơn cũng cố gắng bới tìm thật kỹ để không bỏ xót em nào. Muốn làm tròn bổn phận của lương tri với các sinh linh bé nhỏ nhưng Sơn luôn ước mình và các thành viên trong nhóm phải về tay không sau đêm “tác nghiệp”.

“Buồn là chuyện ấy vẫn không xảy ra. Đêm nào cũng thấy các bé nằm trong đống rác”, Sơn rầu rĩ.

(Tên nhân vật trong bài đã được đổi theo yêu cầu)

(Còn nữa)

]]>
Một vài cảm nghĩ về thảm kịch 39 nạn nhân Việt Nam tại Vương quốc Anh https://tintuc5.samba.vn/mot-vai-cam-nghi-ve-tham-kich-39-nan-nhan-viet-nam-tai-vuong-quoc-anh/ Tue, 12 Nov 2019 04:13:38 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=415 Ngày 07.11.2019, sau những cuộc điều tra giám định kỹ lưỡng, các cơ quan chức năng của Vương quốc Anh và chính quyền Việt Nam đã chính thức công bố: 39 thi thể trong container đông lạnh tại địa hạt Essex – nước Anh đều là người Việt Nam. Hầu hết họ còn rất trẻ. Họ đã chết vì ngạt thở khi bị nhốt kín trong thùng xe đông lạnh ở âm 25 độ C, trên một hành trình phiêu lưu định mệnh đầy trắc trở. Quả thật, đây là một bi kịch thảm thương và đau xót cho tất cả chúng ta.

Đứng trước thảm kịch xót xa ấy, ai cũng muốn gửi lời chia  buồn sâu sắc tới gia đình và tang quyến của những người đã vĩnh viễn ra đi. Trong sổ tang, Thủ tướng Anh viết lên nỗi xót xa bàng hoàng của toàn thể nhân loại: “Cả dân tộc và thế giới thực sự đã bị sốc bởi bi kịch này, bởi sự tàn nhẫn của số phận mà những con người vô tội phải chịu đựng khi họ hy vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn ở đất nước này”. Thủ tướng Việt Nam cũng đã gửi thư chia buồn đến từng gia đình nạn nhân, đồng thời chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp xử lý để sớm đưa thi thể các nạn nhân trở về với gia đình.

Về phía Giáo hội Công giáo, Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám mục giáo phận Vinh, đã viết lá thư mục vụ bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc và lời cầu nguyện thiết tha xin Thiên Chúa an ủi nâng đỡ các gia đình nạn nhân trong biến cố đầy nước mắt này. Đồng thời, Đức cha Anphong cũng chân thành nhắn nhủ với tất cả mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ rằng: “Cuộc sống là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa ban cho con người”. Vì thế, “mỗi người chúng ta hãy trân quý và chăm sóc cuộc sống mình cũng như cuộc sống của người khác, trong hành trình trần thế này”.

Thiết tưởng những lời trần tình của Đức cha Anphong nên được đào sâu và suy gẫm nhiều hơn, để qua biến cố đau thương này, mỗi người chúng ta sẽ nung nấu một ý thức và sống trách nhiệm hơn trước quà tặng cuộc sống. Thực tế những năm qua, có nhiều người trẻ đã đặt cược với mạng sống, trả giá bằng sự ly hương hợp pháp và bất hợp pháp vì một viễn cảnh sống tốt đẹp hơn. Nếu cuộc di cư thành công, hầu hết bạn trẻ sẽ chấp nhận làm mọi việc, bất chấp hiểm nguy và điều kiện lao động nghiệt ngã, miễn sao có nhiều tiền để gửi về cho gia đình tại quê nhà. Nông thôn Việt Nam hôm nay không thiếu những gia đình đã đổi đời trở nên giàu có, nhờ tiền con cái đi làm ở nước ngoài gửi về. Khi có tiền bạc, con người cũng dễ rộng lượng và nhân ái hơn. Bên cạnh việc xây nhà, mua xe nâng cấp cuộc sống thường ngày, họ cũng sẵn sàng đóng góp xây dựng công trình phúc lợi, làm việc từ thiện để phong phú đời sống tâm linh. Ở góc độ tổng quát, những người trẻ này thực sự sống cho một lý tưởng cao đẹp, họ đã hy sinh tuổi xuân nơi đất khách quê người, đền đáp ơn nghĩa sinh thành bằng lao động vất vả của chính bản thân mình, góp phần làm giàu đẹp quê hương. Sau ít năm nếu có dịp trở về quê cha đất tổ, họ được xem như những người con hiếu thảo, tín đồ mộ đạo, công dân yêu nước. Họ quả thật là những người thành công và đã “chăm sóc cuộc sống mình cũng như cuộc sống của người khác”.

Trà My và tin nhắn gửi cho mẹ trước khi chết. Ảnh: Daily Mail

Tuy nhiên, thảm kịch ngày 23.10.2019 vừa qua khiến chúng ta phải bàng hoàng đau xót mà hướng nhìn cận cảnh vào những cuộc ly hương. Báo chí loan tin về mảnh đời chui lủi bấp bênh không giấy tờ nơi đất khách, hay lao thân phạm pháp trồng thuốc phiện tại quê người. Theo Tiến sĩ Tamsin Barber của Đại Học Oxford-Brookes, chuyên nghiên cứu về di cư và người Anh gốc Việt, “Hiện tại, không có con đường hợp pháp nào cho người di cư Việt Nam tay nghề thấp đến làm việc ở Anh. Do đó, muốn đến Anh thì chỉ có qua những con đường vòng và nguy hiểm.” Vì thế mà xuất hiện các đường dây môi giới trốn đi nước ngoài, nhập cư trái phép, tệ nạn xã hội, tổ chức buôn người … tất cả đã góp phần tạo nên tấn bi kịch. Đọc những dòng tin nhắn của cô gái trẻ Trà My: “Con xin lỗi mẹ. Con đường ra nước ngoài của con không thành công… Con yêu bố mẹ nhiều lắm! Con chết vì không thể thở được …”, ai mà không nghẹn lòng để phản tỉnh về trách nhiệm liên đới của mình đối với kiếp người xa quê.

Trước khi xảy ra cái “chết vì không thở được”, những người trẻ này đã phải sống trong bầu không khí với biết bao “ngột ngạt”. Ngạt vì khó nghèo của mảnh đất được sinh ra, ngạt vì thành công của bà con xóm làng; ngạt vì trăn trở của cha mẹ già, ngạt vì kỳ vọng của đàn em nhỏ; ngạt bởi thúc ép nơi người thân, ngạt do lôi kéo của bạn bè, ngạt đến từ hấp dẫn của việc xuất ngoại; lại còn có cái ngạt nội tâm vì con tim luôn khát khao một giấc mộng đổi đời…  Để giải thoát tất cả những thứ “ngột ngạt” đang đè nặng trên cuộc sống, di cư ra nước ngoài dường như là hướng đi duy nhất mà họ có thể nhìn thấy. Nhưng định mệnh thật nghiệt oan, trước khi chết ngạt lâm sàng trong chiếc container đông lạnh, trái tim họ đã luôn ngộp thở vì không đủ hơi ấm tình người.

Vì sự an nghỉ của người đã khuất, xin đừng hỏi tại sao họ đã không lập nghiệp trên chính quê hương mình, hay sao lại đánh đổi quá nhiều để phiêu lưu vào một hành trình nghiệt ngã. Nhưng hãy tự hỏi bản thân chúng ta và tất cả những người còn ở lại: Ai đã tạo nên những cuộc sống đầy ngột ngạt và sức ép? Ai đã khiến họ cảm thấy một tương lai bấp bênh tại mảnh đất được sinh ra? Ai đã không cho họ môi trường đủ tin cậy để chắp cánh ước mơ? Ai đã đẩy họ vào thế yếu trong cuộc cạnh tranh sinh tồn khi mưu sinh tại quê hương xứ sở?

Ai đã đem gán trách nhiệm gia đình cho họ mang vác sớm? Ai đã thúc đẩy họ tìm về vùng đất mới? Ai đã cộng tác vào quyết định liều mạng của họ? Ai đã bất chấp rủi lo, đẩy đưa họ vào những chỗ hiểm nguy khôn lường? Ai đã đầu tư biến họ thành con nợ, để trong cơn nghẹt thở cuối cùng, vẫn còn phải thốt lên lời xin lỗi?

Con đường họ đi đó, có mấy ai quan tâm? Có ai đồng hành để chia sẻ kịp thời với họ những căng thẳng trong cuộc sống? Có ai đã cung cấp bầu khí trong lành để họ có thể vượt lên cái ngột ngạt trong cuộc sống? Có ai đưa họ vào một không gian tâm linh đủ thánh thiện để giải thoát họ khỏi những lầm lạc? Có ai hướng dẫn tinh thần để giúp họ khỏi những cơn đam mê? Đây là trách nhiệm hay là thiếu trách nhiệm nơi mỗi con người? Và phải chăng, trong bi kịch thảm thương này, không ai trong chúng ta là người ngoài cuộc?

Giáo huấn xã hội của Giáo Hội mời gọi chúng ta nhận thức rằng, chỉ có thể bảo đảm và cổ xúy phẩm giá con người với điều kiện là sự việc này được thực hiện bởi cả một cộng đồng và bởi toàn thể nhân loại[1]. Lời giáo huấn này nhấn mạnh đến tình liên đới của tất cả chúng ta, cách đặc biệt, kêu gọi lương tâm con người luôn nhạy bén với những thông điệp yếu ớt và rời rạc, được phát đi từ những số phận đang sống trong ngẹt thở và đông lạnh vì sự hờ hững thiếu trách nhiệm của con người. Trong niềm cậy trông vào lòng Chúa từ nhân, chúng ta cầu xin cho các nạn nhân được an nghỉ yên bình trên thiên quốc, nơi không còn ô nhiễm và ngột ngạt của bụi trần. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng không ngừng dấn thân trong trách nhiệm cá nhân, để cùng nhau tiến đến một giải pháp toàn diện, hầu đoan chắc rằng, thảm kịch của ngày hôm nay sẽ không thể tái diễn.

+ Giuse Nguyễn Đức Cường
  Giám mục Giáo phận Thanh Hóa

]]>
Giới trẻ Giáo xứ Phát Diệm cầu nguyện Taizé tại vườn thánh https://tintuc5.samba.vn/gioi-tre-giao-xu-phat-diem-cau-nguyen-taize-tai-vuon-thanh/ Tue, 12 Nov 2019 04:12:27 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=411 Tháng 11 – tháng Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho các đẳng linh hồn: “Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đã hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã qua đời. Vì cầu nguyện để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh”. Trong tâm tình ấy, vào lúc 19h30 thứ Bảy ngày 09.11.2019, tại vườn thánh Phát Diệm, Giới trẻ giáo xứ chính toà đã cùng nhau cử hành buổi cầu nguyện Taizé bên Thánh Giá Chúa với chủ đề: “CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI”.

Sự thường khi nhắc đến hai từ “nghĩa địa”, người ta sẽ nghĩ ngay đến một nơi lạnh lẽo, tối tăm, rùng rợn, là chỗ của người chết. Nhưng đêm nay, những cảm giác hoang vắng ấy đều tan biến để nhường chỗ lại cho sự ấm áp của tình hiệp thông tuyệt đẹp trong Giáo Hội, bóng tối cũng lùi xa trước ánh sáng lung linh của hàng trăm ngọn nến được thắp lên như niềm hi vọng phục sinh mà cộng đoàn mong ước cho các đẳng linh hồn được chung hưởng. Tham dự buổi cầu nguyện, có sự hiện diện của quý cha đặc trách, quý chức, hơn 200 bạn trẻ cùng bà con giáo dân trong giáo xứ Phát Diệm. Tất cả cùng họp nhau nơi đây để dâng lên Chúa những lời kinh tiếng hát với một ý nguyện duy nhất:

“Lạy Chúa, xin Chúa thương đón nhận linh hồn các anh chị em của chúng con vào vòng tay nhân từ của Chúa. Xin Chúa chúc lành cho họ và ban cho họ ân sủng để lãnh nhận Thần Khí Tình Yêu của Chúa nhằm dẫn dắt họ đến với ơn cứu rỗi đời đời”.

Buổi cầu nguyện kết thúc trong sự linh thiêng, sốt sắng và đọng lại trong mỗi người tham dự một niềm tin, niềm hi vọng vào Chúa quan phòng sẽ thương đón nhận thật nhiều linh hồn vào chung hưởng hạnh phúc với Người.

Dưới đây là một số hình ảnh ghi lại diễn tiến buổi cầu nguyện.

]]>