Suy niệm – Tin Tức 05 https://tintuc5.samba.vn Tue, 25 May 2021 13:32:08 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.1 https://tintuc5.samba.vn/wp-content/uploads/2019/11/cropped-bn-header-32x32.jpg Suy niệm – Tin Tức 05 https://tintuc5.samba.vn 32 32 Phác Họa Chân Dung Một Vị Thánh – Đức Hồng Y John Henry Newman https://tintuc5.samba.vn/phac-hoa-chan-dung-mot-vi-thanh-duc-hong-y-john-henry-newman/ Tue, 12 Nov 2019 05:52:08 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=497 Ngày 1 tháng 7 năm 2019, Tòa thánh Vatican loan báo Chân phước John Henry Newman và 4 vị khác sẽ được tuyên phong hiển thánh vào ngày 13 tháng 10 năm 2019. Chân phước Newman được đánh giá là một trong những bậc thầy vĩ đại của Hội Thánh, vì thế sẽ thật hữu ích khi nhìn lại cuộc đời và giáo huấn của ngài để đón nhận những bài học cần thiết cho đời sống và sứ vụ của Hội Thánh ngày nay.

Một cuộc đời kiếm tìm chân lý

Đức hồng y John Henry Newman sinh tại Luân Đôn, Anh Quốc, ngày 21 tháng 2 năm 1801. Ngài được dạy dỗ trong truyền thống Anh giáo và từ nhỏ đã có thiên hướng tôn giáo, cụ thể là siêng đọc Kinh Thánh. Kinh Thánh giúp ngài sống đạo đức, nhưng mối quan tâm tri thức lại khiến ngài đặt những câu hỏi nền tảng và muốn tìm kiếm câu trả lời rõ ràng, chính xác. Vì thế khi mới 14 tuổi, ngài đã bị cám dỗ bỏ đạo: “Tôi muốn sống tốt nhưng không cần theo đạo; tôi không hiểu Thiên Chúa yêu thương có nghĩa gì”.

Chính trong giai đoạn đó, Chúa gõ cửa lòng Newman. Trong những ngày nghỉ lễ năm 1816, Newman đọc cuốn Force of Truth (Sức mạnh của chân lý) của Thomas Scott, và tác phẩm đó đã gây ấn tượng rất sâu đến nỗi ngài coi đó như “cuộc hoán cải đầu tiên” và là một trong những ơn ban lớn nhất trong đời. Newman bắt đầu nhận thức cách sâu sắc sự hiện hữu và hiện diện của Thiên Chúa cũng như của thế giới vô hình. Ngài cũng rút từ tác phẩm của Thomas Scott hai câu ghi dấu ấn suốt đời ngài: “Tìm kiếm sự thánh thiện hơn là bình an”, và “Bằng chứng duy nhất của sự sống là sự tăng trưởng”.

Sau cuộc hoán cải đầu tiên này, Newman đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự và hết lòng bước theo Chân lý như ngài diễn tả trong tác phẩm Apologia pro vita sua: “Khi tôi 15 tuổi (mùa Thu năm 1816), một sự thay đổi lớn lao về tư tưởng diễn ra trong tôi. Tôi đặt mình dưới sự hướng dẫn của Kinh Tin kính và tâm trí đón nhận đạo lý đức tin, đó là những điều nhờ lòng Chúa thương xót, sẽ không bao giờ lu mờ hoặc bị xóa nhòa”. Newman bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của những tín điều trong Kitô giáo: sự Nhập thể của Con Thiên Chúa, công trình cứu độ của Đức Kitô, ân huệ Thánh Thần ngự xuống trong linh hồn người chịu Phép Rửa, đức tin không đơn thuần là một lý thuyết nhưng cần được diễn tả trong chương trình sống.

Sau khi hoàn tất chương trình học tại Trinity College, Oxford, Newman trở thành mục sư Anh giáo và sau này phụ trách nhà thờ Saint Mary, nhà thờ của đại học Oxford. Trong thời gian này, ngài quan tâm nghiên cứu các Giáo phụ, đồng thời cảm thấy quan ngại trước tình trạng thiêng liêng của Giáo hội Anh giáo trước sự gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do (liberalism) tại Oxford cũng như trên khắp nước Anh. Để chống lại xu hướng này, Newman cùng với một vài người bạn lập nên Phong trào Oxford (Oxford Movement) năm 1833. Phong trào này phê phán việc Anh Quốc không còn thực hành đức tin, và kêu gọi phải trở về với Kitô giáo nguyên thủy thông qua cuộc cải cách đích thực về mọi mặt: tín lý, thiêng liêng, phụng vụ. Với mục đích này, phong trào thực hiện những ấn phẩm nhỏ, dễ phổ biến, cố gắng gây tác động trên hàng giáo sĩ cũng như các tín hữu đơn thành, đang bị giằng co giữa hai thái cực là chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý.

Newman nhận ra rằng cuộc tranh luận chống lại chủ nghĩa tự do về mặt tôn giáo cần có một nền tảng giáo thuyết vững chắc, và ngài xác tín ngài đã tìm được nền tảng đó nơi những văn bản của các Giáo phụ mà ngài coi là các sứ giả và tiến sĩ đích thực của đức tin Kitô. Từ đó, Newman khai triển lý thuyết được gọi là Via media (con đường trung dung). Newman cũng tìm cách chứng minh rằng Anh giáo là người thừa kế hợp pháp của Kitô giáo nguyên thủy và là Giáo hội đích thực trong Đức Kitô, vì nơi Anh giáo không có những sai lầm về giáo thuyết như Tin Lành, cũng không có những lạm dụng mà ngài cho là đang có trong Công giáo Rôma.

Thế nhưng khi nghiên cứu lịch sử Giáo hội ở thế kỷ IV, Newman khám phá một điều quan trọng là Kitô giáo trong thời đại ngài đang sống lại phản ánh 3 nhóm tôn giáo ở thế kỷ IV, có thể so sánh như sau: Tin Lành giống như phái Ariô; Công giáo Rôma giống như các tín hữu Rôma; Anh giáo giống như người theo thuyết Ariô nửa vời (semi-Arianism). Khám phá đó bắt đầu gợi lên những nghi ngờ về Anh giáo. Không lâu sau đó, Newman đọc một bài viết trong đó tác giả so sánh Anh giáo với những người theo thuyết Donatism ở châu Phi thời thánh Augustinô. Và ngài sẽ không bao giờ quên câu nói của thánh Augustinô: “Hội Thánh phổ quát, trong phán quyết của mình, là sự bảo đảm cho Chân lý” (Securus judicat orbis terrarum). Newman nhận ra rằng những xung đột về giáo thuyết thời Hội Thánh sơ khởi được giải quyết không chỉ dựa vào nguyên tắc về tính cổ xưa (antiquity) nhưng còn là tính Công giáo (catholicity), nghĩa là ý kiến của Hội Thánh xét như một toàn thể chính là lời tuyên bố bất khả ngộ.

Trung thành với nguyên tắc phải tôn trọng Chân lý, Newman quyết định lui về Littlemore, một làng nhỏ gần Oxford, dành thời giờ cho việc cầu nguyện và nghiên cứu. Ngài bắt đầu liên kết những đường dây suy tưởng xuất hiện trong những năm qua. Câu hỏi đặt ra là nếu Hội Thánh Công giáo Rôma thực sự là tông truyền thì làm sao có thể lý giải những giáo thuyết bên Công giáo xem ra không phải là di sản được để lại từ Kitô giáo nguyên thủy?

Từ đó hình thành những suy nghĩ dẫn đến nguyên lý về sự phát triển chính thực mà Newman khai triển để giải thích những giáo huấn mới trong đời sống Hội Thánh: những tín điều sau này là sự phát triển chính thực mặc khải nguyên thủy. Newman trình bày lập luận này trong bài An Essay on the Development of Christian Doctrine (Sự phát triển giáo thuyết Kitô), trong đó ngài phi bác quan điểm cho rằng chân lý hoặc sai lầm trong các vấn đề tôn giáo chỉ là những ý kiến khác nhau, và ơn cứu độ không lệ thuộc vào lời tuyên xưng đức tin đúng đắn. Newman khẳng định: “Chân lý và giả dối được đặt trước mắt chúng ta để thử lòng chúng ta; chọn lựa của chúng ta là chọn lựa đáng sợ vì được cứu độ hay bị chối bỏ tùy thuộc vào đó; trước mọi sự, phải bám chặt vào đức tin Công giáo”.

Gia nhập Hội Thánh Công giáo

Khi Newman nghiên cứu về sự phát triển giáo thuyết Kitô, ngài nhận ra rằng Hội Thánh Rôma là Hội Thánh của các Giáo phụ, Hội Thánh đích thực của Đức Kitô. Vì thế ngày 9 tháng 10 năm 1845, ngài tuyên xưng đức tin Công giáo, được Chân phước Dominic Barberi, người Ý, dòng Passionist, đón nhận vào Hội Thánh Công giáo.

Quyết định của Newman gia nhập Hội Thánh Công giáo đã gây chấn động lớn trong Giáo hội Anh giáo. Có người cảm phục trước quyết định can đảm của ngài nhưng không ít người coi đó như sự phản bội, và Newman phải chịu nhiều đau khổ vì quyết định này. Dư luận vẫn còn bám theo ngài trong nhiều năm sau đến độ có lúc báo chí tung tin Newman cảm thấy lạc lõng trong Hội Thánh Công giáo, nên sẽ trở lại Giáo hội Anh giáo. Thế nhưng Newman rất vững tâm như ngài viết cho một người quen: “Kể từ khi được đón nhận vào Hội Thánh Công giáo, tôi không có lúc nào bị lung lay trong niềm tin vào Hội Thánh. Tôi tin chắc, và sẽ mãi chắc chắn rằng Đức Giáo hoàng là trung tâm của sự hiệp nhất và là Đấng Đại diện Chúa Kitô; tôi mãi mãi tin vào Kinh Tin kính Hội Thánh tuyên xưng, mọi tín điều trong đó; tôi hoàn toàn thỏa mãn với việc thờ phượng, kỷ luật, giáo huấn của Hội Thánh; và dù rất khó khăn, tôi vẫn mong mỏi nhiều người bạn của tôi theo Tin Lành cũng sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc của tôi”.

Sau khi trở thành linh mục Công giáo, Newman lập chi nhánh Dòng Thánh Philip Neri ở Birmingham [1]. Trong nhiều hoạt động thần học và mục vụ, ngài chú trọng nhiều nhất đến việc đào tạo trí thức và thiêng liêng cho các tín hữu Công giáo, các anh em trong dòng và các tân tòng. Ngài xác tín rằng trong thời đại hiện nay với những thay đổi rất nhanh về văn hóa và xã hội, cần phải có một đức tin có khả năng bày tỏ những lý do của niềm hi vọng Kitô giáo. Vì thế ngài làm việc không ngơi nghỉ để huấn luyện những giáo dân có học thức, sống trong thế giới, làm việc trong ánh sáng đức tin và có khả năng bảo vệ đức tin của mình.

Cha John Henry Newman được Đức Giáo hoàng Lêô XIII nâng lên hàng Hồng y ngày 15 tháng 5 năm 1879, nhưng ngài xin là không chịu chức Giám mục và vẫn ở lại Birmingham. Trong dịp này, ngài có bài phát biểu nổi tiếng, được coi như những lời tiên tri về thời đại chúng ta ngày nay:

“Chủ nghĩa tự do về tôn giáo là học thuyết chủ trương không có chân lý tích cực trong tôn giáo, niềm tin nào cũng tốt như nhau, và đây là chủ trương đang chiếm ưu thế từng ngày. Chủ trương này không chấp nhận bất cứ tôn giáo nào là chân lý, vì mọi tôn giáo chỉ là chuyện ý kiến riêng. Tôn giáo mặc khải không phải là chân lý nhưng chỉ là tình cảm và cảm nhận; không phải sự kiện khách quan; đó là quyền của mỗi người nói ra điều mình thích. Đạo đức không nhất thiết phải xây nền trên đức tin. Người ta có thể đi nhà thờ Tin Lành hay Công giáo, có thể thấy ích lợi của cả hai nhưng không thuộc bên nào cả. Người ta có thể làm bạn với nhau về tư tưởng và tình cảm thiêng liêng mà không có chung niềm tin và cũng không cần phải có. Bởi lẽ tôn giáo là chuyện cá nhân, đặc thù, riêng tư nên không cần phải biết đến trong những tương giao con người. Nếu một người cứ mỗi ngày lại theo một đạo thì mắc mớ gì đến bạn? Thật không thích hợp nếu nghĩ về tôn giáo của một người như nghĩ đến nguồn lợi tức hoặc việc điều hành gia đình của họ. Tôn giáo không liên quan gì đến mối dây xã hội cả”.

Những gì Đức hồng y Newman nói về chủ nghĩa tự do, ngày nay có thể gọi là chủ nghĩa tương đối và chúng ta không thể quên cụm từ nổi tiếng của Đức Bênêđictô XVI về “sự chuyên chế của chủ nghĩa tương đối”! Lối nghĩ và lối sống mà Đức hồng y Newman cảnh giác xem ra ngày càng phổ biến và thắng thế, với những hậu quả tai hại rất lớn cho đời sống đức tin, nhất là chiều kích văn hóa và xã hội của đức tin. Đức hồng y Newman nhắc nhở mọi Kitô hữu, mục tử cũng như giáo dân, rằng Chân lý là kho tàng quý giá mà chúng ta đón nhận bằng đức tin, chân lý ấy phải được loan báo cách trung thực và bảo vệ bằng mọi giá.

Ngày 11 tháng 8 năm 1890, Đức hồng y Newman qua đời tại nhà dòng ở Edgbaston. Vào thời điểm đó, tờ Times of London (Thời báo Luân Đôn) viết: “Dù Rôma có tuyên thánh cho Hồng y Newman hay không, ngài cũng sẽ được tuyên thánh trong suy nghĩ của những người đạo đức thuộc nhiều niềm tin ở nước Anh”.

Sự nhìn nhận của Rôma

Trong dịp Đức Lêô XIII nâng cha John Henry Newman lên hàng Hồng y, Tòa Thánh Vatican đã gửi đến Hồng y Newman sứ điệp ngày 15 tháng 3 năm 1879: “Đức Thánh Cha trân trọng cách sâu sắc tài năng và học thức nổi trội của hiền huynh, lòng đạo đức và sự nhiệt thành của hiền huynh trong việc phục vụ Tác vụ thánh, sự tận tụy và sự gắn bó hiếu thảo của hiền huynh với Tòa Thánh, và sự phục vụ đáng kể của hiền huynh trong nhiều năm đối với tôn giáo, (ngài) quyết định dành cho hiền huynh bằng chứng công khai và cao quý về sự trân trọng và thiện ý của ngài”.

Trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày Newman được nâng lên hàng hồng y, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gửi thư cho Đức cha George Patrick Dwyer, Tổng giám mục Birmingham, trong đó ngài viết: “Tư tưởng triết học và thần học cũng như linh đạo của Đức hồng y Newman bám rễ sâu và được phong phú hóa nhờ Kinh Thánh và giáo huấn của các Giáo phụ, (tư tưởng đó) vẫn còn nguyên giá trị và tính độc đáo của nó….Tôi hi vọng rằng dung mạo và giáo huấn của vị hồng y vĩ đại này sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho việc thi hành sứ mệnh của Hội Thánh trong thế giới ngày càng hiệu quả hơn, và giúp canh tân đời sống thiêng liêng của các thành viên trong Hội Thánh cũng như thúc đẩy việc phục hồi sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu”.

Ngày 19 tháng 9 năm 2010, Đức Bênêđictô XVI nâng Đức hồng y Newman lên hàng Chân phước. Trong giờ canh thức trước ngày tuyên phong, tại công viên Hyde Park, Luân Đôn, Đức Bênêđictô XVI đã nêu cao tấm gương của Newman: “Newman dạy chúng ta rằng nếu chúng ta đã đón nhận chân lý của Đức Kitô và trao phó đời sống cho Người, thì không thể có sự tách biệt giữa điều chúng ta tin và cách chúng ta sống. Mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta phải quy hướng về vinh quang Thiên Chúa và mở rộng Vương quốc của Người. Newman đã hiểu được điều này và đã là nhà vô địch đáng kính trong sứ vụ tiên tri của người Kitô hữu. Ngài thấy rõ ràng rằng chúng ta không đón nhận chân lý như một hành động thuần tri thức cho bằng (đón nhận) trong một tiến trình năng động thiêng liêng, và chân lý ấy thấm vào tận tâm khảm chúng ta. Chân lý được thông truyền không chỉ bằng giáo huấn, dù là điều quan trọng, nhưng còn bằng chứng tá của những cuộc đời đã sống chân lý ấy trong sự toàn vẹn, trung tín và thánh thiện; những ai sống trong và nhờ chân lý sẽ tự nhiên nhận ra những gì là giả dối, và vì giả dối nên cũng là thù nghịch của cái đẹp, cái thiện vốn song hành với vẻ huy hoàng của cái thật, Veritatis splendor”.

Kết luận

Trong một bài thuyết trình về Đức hồng y Newman nhân kỷ niệm 100 năm ngày qua đời của ngài (1990), Đức hồng y Joseph Ratzinger (Đức Bênêđictô XVI sau này) đã nói: “Đối với tôi, đặc điểm của vị Tiến sĩ Hội Thánh là ngài không chỉ dạy chúng ta bằng tư tưởng và lời nói nhưng còn bằng đời sống của ngài, vì nơi ngài, tư tưởng và đời sống đan quyện vào nhau. Nếu thế, Newman cũng đứng trong hàng ngũ những bậc thầy vĩ đại của Hội Thánh, vì ngài vừa chạm đến con tim chúng ta vừa soi sáng suy nghĩ của chúng ta”.

Nhận xét này vừa đáng quý vừa mang tính tiên tri. Đáng quý vì chỉ cho chúng ta thấy dung mạo thực sự của Newman: không chỉ là nhà thần học với những suy tư sâu sắc nhưng còn là một vị thánh. Và mang tính tiên tri vì nhiều người trong Hội Thánh Công giáo ngày nay đang nghĩ đến một ngày Thánh John Henry Newman sẽ được tuyên phong là Tiến sĩ Hội Thánh, vị tiến sĩ không chỉ dạy chúng ta thứ thần học bàn giấy nhưng còn giúp chúng ta sống nền thần học bàn quỳ vốn là điều hết sức cần thiết trong thời đại tục hóa ngày nay.

Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm

[1] Dòng Thánh Philip Neri (The Congregation of the Oratory of St Philip Neri) là Hội dòng giáo hoàng về đời sống tông đồ, quy tụ các linh mục và sư huynh sống chung trong một cộng đoàn, không có lời khấn công khai nhưng chỉ liên kết với nhau bằng mối dây đức ái. Thánh Philip Neri lập dòng này ở Rôma năm 1575. John Henry Newman, sau khi thành linh mục Công giáo, đã cùng với một vài linh mục lập chi nhánh ở Birmingham, cuối cùng dời về Edgbaston.

Tài liệu tham khảo 

Herman Geissier, On the 125th Anniversary of John Henry Newman’s Becoming a Cardinal, L’Osservatore Romano, 11/18 August 2004.

Fabio Attard SDB, Blessed John Henry Newman, Theology and Holiness, www.newmanfriendsinternational.org/en/blessed-john-henry-cardinal-newman.

Benedict XVI, Prayer Vigil on the Eve of the Beatification of Cardinal John Henry Newman, https://w2.vatican.va/content/benedict-xvi/en/speeches/2010/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20100918_veglia-card-newman.html

John Paul II, Letter to H.E. Msgr. George Patrick Dwyer, Archbishop of Birmingham, for the first centenary of the elevation to the cardinalate of John Henry Newmanhttps://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/en/letters/1979/documents/hf_jp-ii_let_19790514_100-newman.html

]]>
Bài giảng lễ an táng thày GB. Nguyễn Khang An https://tintuc5.samba.vn/bai-giang-le-an-tang-thay-gb-nguyen-khang-an/ Tue, 12 Nov 2019 05:49:48 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=492 Kính thưa ….

Chúng ta cử hành lễ an táng và cầu nguyện cho thầy An, thuộc hội Anrê Phú Yên và tiễn đưa thầy về nơi an nghỉ cuối cùng. Đó là một nghĩa cử cao đẹp của tình liên đới, hiệp thông giữa kẻ đi, người còn ở lại.

Thưa anh chị em : vào tuổi 59, thầy An không chết trẻ, mà cũng chẳng chết già : chết vào tuổi bánh tẻ (theo cách nói của người Miền Bắc) và chết vào tuổi xồn xồn (theo kiểu nói của người Miền Nam), nhưng chết vào tuổi đó, đời thầy còn rất nhiều dang dở.

Từ hoàn cảnh của thầy, xin gởi tới cộng đoàn đề tài “dang dở” của kiếp sống phàm nhân với vô số nghịch lý để gẫm suy thân phận con người mong manh, mỏng giòn, yếu đuối, nếu không được ánh sáng đức tin soi dẫn, cuộc đời chỉ là một chuỗi những bế tắc, vô nghĩa, dang dở, dở dang.

Dang dở là một ý niệm, hình thành từ kinh nghiệm sống, diễn tả những công việc, những hoài bão chưa hoàn tất, manh mún, ngổn ngang, phải bỏ dở, và không thể đưa vào sử dụng theo mục đích yêu cầu. Dang dở đúng là một thất bại và nó chiếm được vương vị khi một sinh linh nằm xuống.

Chẳng ai thích dang dở bao giờ, nhưng lại không tài nào tống khứ nó khỏi cuộc sống. Nó nhập cuộc khi một người được sinh vào đời, và đeo bám họ cho đến chết. Đối diện với dang dở mới thấy đời người mong manh, vắn vỏi, ước mơ chưa tròn đã phải ra đi. Thật là : “con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ” (Is 38, 12).

Dang dở, thất bại, thánh giá cuộc đời và cả sự chết nữa quả là một mầu nhiệm, người ta không thể lý giải bằng trí khôn thuần túy, mà phải nại tới mạc khải và nhờ ánh sáng đức tin soi dẫn, những thánh giá, đau khổ cuộc đời mới được khai thông.

Bài đọc I, trích từ sách khôn ngoan, ngẫm suy về sự chết với đầy dẫy yếu tố tích cực trong đó. Người công chính (người sống niềm tin vào TC) đón nhận cái chết cách bình thản, nhẹ nhàng, tôi có cảm tưởng họ bước vào sự chết giống như người bước qua ngưỡng cửa của niềm hy vọng, viên mãn : “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa. Đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với những người không hiểu biết thì việc họ từ biệt chúng ta là như đi vào cõi tiêu diệt, nhưng thực ra các ngài sống trong bình an…” (Khn 3, 1 – 3).

Thành ngữ “Ở trong tay Chúa” diễn tả sự quan phòng, được bao bọc chở che, được bảo vệ khỏi mọi nguy hiểm xác hồn. CJS, trong lời nguyện hiến tế, đã nhắc lại sự an toàn cho những kẻ được trao phó cho Ngài “ Con đã gìn giữ những kẻ cha đã trao phó cho Con, và không một ai trong chúng phải hư đi” (Jn 17, 11)

Ở trong tay Chúa còn diễn tả sức mạnh quyền năng trong công trình sáng tạo và cứu chuộc. Chính cánh tay hùng mạnh Chúa sáng tạo muôn loài và còn kỳ diệu hơn nữa tay ngài đã cứu chuộc Israel cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.

Ở trong tay Chúa không gì khác hơn là được hưởng tình yêu và sự sống thần linh một cách trọn vẹn, vô lường.

Thật hạnh phúc biết bao cho những ai cư ngụ trong bóng cánh tay Ngài. Tư tưởng này còn được nhân lên gấp bội, khi nhìn Thiên Chúa trong tư cách người mục tử nhân lành. Cánh tay ấy, đã từng chống lại sói dữ tấn công đoàn chiên. Cánh tay ấy, đã từng dẫn bao nhiêu chiên lạc trở về. Cánh tay ấy, đã từng vác biết bao con chiên trên vai, trong số đó có bạn, có tôi và có cả thầy An nữa.

Thầy An à, mình hát cho thầy nghe bài : Chúa là mục tử của lm. Nguyễn Sang, bài hát thầy ưa thích nhất (tôi chỉ hát cho thầy An nghe thôi).

Bài trích sách Khôn Ngoan được đọc lên trong thánh lễ an táng, thật là một vùng ánh sáng của niềm hy vọng cho những ai đang buồn sầu vì số phận phải chết và cũng cho những ai đang than khóc người quá cố của mình, nhìn vào đó mà tiến bước trong an bình, vì luôn thâm tín rằng : mọi dang dở kiếp người sẽ được hoàn thành tốt đẹp, tròn trịa trong TC là “Tình Yêu và Sự Sống”.

Bài Tin Mừng tuyên đọc hôm nay là một biện chứng giúp hóa giải những nghịch lý cuộc sống đang đè nặng lương tâm chúng ta. Thân phận hạt lúa mì dạy chúng ta bài học về giá trị cao đẹp của “tình yêu và sự sống”. Sự sống ấy không bao giờ là vật sở hữu của những con người lười biếng, ích kỷ, chỉ trau chuốt lo cho bản thân mình : “Ai chỉ lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Ngược lại, tình yêu và sự sống luôn ban tặng cách phong nhiêu cho những ai đành liều mất mạng sống mình vì CJS và vì Tin Mừng của Ngài.

Bài học từ thân phận hạt lúa mì giúp chúng ta đánh giá mọi thực tại cuộc sống bằng con mắt đức tin : mất để được, chết để sống. Chỉ khi hiểu thấu ý nghĩa cao cả đó, chúng ta mới tìm được sự thanh thản, bình an, trong những nghịch lý, bế tắc, dang dở đè nặng cuộc đời chúng ta. Với niềm phó thác cậy trông hãy sống lời khuyên của thánh Phêrô : “mọi lo toan hãy trút cả cho Người, vì Người lo cho anh em” (1Pr 5, 7).

Anh chị em thân mến, từ tấm bé thầy An đã có ước muốn dâng mình cho Chúa làm tông đồ trong chức linh mục, nhưng vì hoàn cảnh lịch sử của đất nước thời bấy giờ, thầy cứ phải chờ đợi mãi thôi. Đã có lần bề trên giáo phận tuyển chọn thầy vào chủng viện để bổ túc kiến thức cho sứ vụ linh mục, rồi cũng dở dang không thành. Trong hội thầy giảng Anrê Phú Yên, thầy có năng lực nhiều mặt, được bề trên sai đến phục vụ nhiều giáo xứ, đùng một cái thầy đổ bệnh phải bỏ dở dang công việc đang làm về dưỡng bệnh tại nhà hưu, cho đến hôm nay, Chúa gọi thầy về với ngài.

Cuộc đời thầy thật nhiều dang dở, thật nhiều thánh giá, nhưng trong Đức Kitô mọi dang dở sẽ nên hoàn thiện, được mài dũa tròn trịa mỹ mãn vì tất cả đã được kitô hóa, tất cả đã nên đồng hình đồng dạng với Chúa.

Bí tích thánh thể sẽ được cử hành trong giây lát. Tại đó CJS sẽ thần hóa cái dang dở, cái tầm thường, của mỗi chúng ta, cả của thầy An trong đời thường, thành mình, máu thánh của Ngài. Nơi mình thánh Chúa, liệu anh chị em còn nhận ra đâu là phần của mình nữa không ? Thưa không ? Vì đó là chính Chúa. Nhưng nếu không có hoa màu ruộng đất và lao công chúng ta, lấy gì làm chất liệu cho việc cử hành trọng đại này đây.

Nếu bánh rượu và lao công con người, nhờ Thánh Thần, trở nên mình máu thánh Chúa, thì những dang dở cuộc đời chúng ta cũng sẽ được hoàn thành mỹ mãn trong Đức Kitô Phục Sinh. Đó chính là : Trời mới, đất mới, Chúa hứa tặng cho bạn, cho tôi và cho thầy An.

Xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho thầy Gio-an Baotixita và cũng lấy những lời ấy chia sẻ và an ủi nhau trong biến cố tang chế này. Amen.

Lm Giuse Phạm Ngọc Khuê

]]>
Lễ Đức Mẹ Mân Côi: Hội Thánh cầu nguyện với Kinh Mân Côi https://tintuc5.samba.vn/le-duc-me-man-coi-hoi-thanh-cau-nguyen-voi-kinh-man-coi/ Tue, 12 Nov 2019 05:48:49 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=488 Lễ Đức Mẹ Mân Côi

Hội Thánh cầu nguyện với Kinh Mân Côi

Khi nói đến Đức Mẹ Mân Côi, chắc hẳn ai cũng nhớ tới những lần Dân Chúa nhờ cầu nguyện với Kinh Mân Côi mà chiến thắng những sai lầm hoặc hận thù đang tấn công Hội Thánh. Chẳng hạn khi bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp vào thế kỷ XII, chính Đức Mẹ tay cầm tràng hạt đã chỉ cho thánh Đaminh cách đọc Kinh Mân Côi, và thánh nhân đã phổ biến cho các tín hữu, nhờ đó người lạc giáo đã từ bỏ sự lầm lạc để trở về với chân lý.

Trước sức mạnh của những kẻ thù nghịch xâm chiếm những miền đất Công giáo ở châu Âu, cũng nhờ lần hạt Mân Côi mà dân Kitô giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepante vào đúng ngày 7-10-1571, hay tại bờ biển Hy Lạp năm 1716.

Đằng sau câu chuyện của những chiến thắng ấy, là bóng dáng của một người Mẹ luôn đồng hành với Hội Thánh trong suốt chiều dài của lịch sử, đặc biệt trong những lúc khó khăn thử thách. Và đằng sau câu chuyện của những cuộc chiến, là hình ảnh của một Hội Thánh cầu nguyện, chuyên chăm và sốt sắng, bên cạnh Đức Maria là Mẹ của mình.

Bài đọc 1 kể lại : sau khi Đức Giêsu lên trời, các Tông đồ trở về Nhà Tiệc ly, cùng cầu nguyện với Đức Mẹ để chờ đón Chúa Thánh Thần trước khi lên đường đi khắp thế gian thi hành sứ mệnh Phúc Âm hóa. Hơn ai hết, Đức Mẹ đã có kinh nghiệm về sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần ; Mẹ cũng là người có kinh nghiệm về sự cầu nguyện trong thâm sâu của cõi lòng để đón nhận ý Chúa và thực thi với lòng yêu mến và tín thác. Mẹ hiện diện trong Nhà Tiệc ly để dạy các Tông đồ cầu nguyện, để chỉ cho các Tông đồ hiểu rằng cầu nguyện là công việc ưu tiên hàng đầu, trước khi dấn thân vào các hoạt động Phúc Âm hóa. Bên cạnh những hình ảnh đẹp về một Hội Thánh truyền giáo, về một Hội Thánh của người nghèo, khung cảnh nhà Tiệc ly là một hình ảnh đẹp về một Hội Thánh cầu nguyện.

Ước gì ngày nay Đức Mẹ cũng dạy chúng ta về sự ưu tiên của cầu nguyện. Thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II khẳng định : “Tương lai của việc truyền giáo tuỳ thuộc phần lớn vào đời sống chiêm niệm”. ĐTC Phanxicô nói : nếu muốn đi loan báo Tin Mừng, chúng ta cần đời sống cầu nguyện, để “có Đức Kitô cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình” ; nếu không, “chúng ta thiếu sinh lực và đam mê. Một người không có xác tín, không phấn khởi, không chắc chắn và không yêu, người ấy chẳng thuyết phục được ai”.

Nói tới cầu nguyện, xem ra là điều lạc lõng và khó thực hiện trong thời đại của tốc độ vội vã, của hoạt động không ngừng, của ồn ào nhộn nhịp. Nhưng chính vì thế, Kinh Mân Côi lại rất phù hợp cho các tín hữu thời đại hôm nay.

Kinh Mân Côi được gọi là việc đạo đức bình dân, không phải vì là lời cầu nguyện tầm thường, nhưng vì là lời kinh dễ thực hiện của toàn thể Dân Thiên Chúa : của Đức Giáo hoàng, các giám mục và linh mục, của tu sĩ và giáo dân, của người già người trẻ, nam cũng như nữ. Đó không phải chỉ là lời cầu nguyện của người ít học, mà cũng là lời kinh của các nhà bác học và trí thức như Blaise Pascal, André-Marie Ampère, Louis Pasteur ; là lời kinh của tín hữu bình dân, nhưng cũng là lời kinh của nhà thần học ; là lời kinh của người tội lỗi cũng như của bậc đại thánh, của người sống đời chiêm niệm cũng như của người dấn thân trong hoạt động tông đồ.

Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện có thể đọc mọi nơi mọi lúc. Đó là lời kinh trong bầu khí trang nghiêm trước Thánh Thể khi cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm Chúa Giêsu, mà cũng là lời kinh trên đường đi chợ hoặc ra đồng ruộng hay đến công ty xí nghiệp ; là lời kinh trong giờ kinh tối của gia đình, và cũng là lời kinh trong lúc đợi khám bệnh hay đứng bên vệ đường chờ xe. Với Kinh Mân Côi, các tín hữu trở thành những nhà chiêm niệm bên vệ đường, nối kết đất với trời. Thật đẹp và quí biết bao.

Lần hạt Mân Côi không phải là những lời lải nhải ngoài môi miệng như cái máy, mà đó là lời cầu nguyện của trọn vẹn hồn xác con người. Cả thân xác và tinh thần cùng tham gia cầu nguyện : miệng đọc lâm râm, mắt chiêm ngắm, tay lần hạt, thân mình đứng quì hay ngồi tùy theo từng mầu nhiệm, đang khi đó thì trí nhớ và trí tưởng tượng hình dung một biến cố trong lịch sử cứu độ để chiêm ngắm, trí hiểu suy niệm về thánh ý Thiên Chúa, còn trái tim rung những nhịp đập cảm mến tình thương của Ba Ngôi, để rồi cuối cùng ý chí quyết tâm biến đổi cuộc sống và hiến thân cho chương trình cứu độ. Như thế, mỗi lần một chút, mỗi ngày một chút, nhờ Đức Mẹ, những tư tưởng và tâm tình của Chúa Giêsu thấm dần vào con người Kitô hữu và biến đổi từ bên trong để họ ngày càng nên giống Chúa, tựa như giọt sương thấm dần vào cây lan xấu xí để đến lúc sẽ nở ra những cánh hoa muôn màu xinh đẹp.

Tuy đơn sơ, Kinh Mân Côi lại là bản tóm của toàn bộ Kinh Thánh, từ những lời hứa trong Cựu Ước được nhắc lại trong biến cố Truyền tin, đến mầu nhiệm Giáng sinh và thời kỳ ẩn dật của Chúa Giêsu, từ lời rao giảng và các biến cố trong ba năm rao giảng, đến cuộc Khổ nạn đau thương và Phục sinh vinh quang, từ thời gian của Chúa Giêsu đến thời gian của Hội Thánh dưới tác động của Chúa Thánh Thần, từ cuộc lữ hành trần thế của nhân loại đến chung cuộc vinh quang nơi thiên quốc được báo trước nơi mầu nhiệm Đức Mẹ hồn xác lên trời. Quả thực đó là bản tóm của toàn thể lịch sử cứu độ.

Nếu nói về lời đọc, thì Kinh Mân Côi vừa có Kinh Lạy Cha là lời kinh đặc trưng của Kitô hữu do chính Chúa Giêsu dạy, vừa có lời chúc tụng của Hội Thánh dâng lên Chúa Ba Ngôi trong Kinh Sáng danh ; là lời chúc tụng của thiên thần kính chào Đức Mẹ, mà cũng là lời khẩn cầu của loài người xin Đức Mẹ Chúa Trời thương đến “chúng con là kẻ có tội”. Khi đọc Kinh Mân Côi, các tín hữu xin ơn trợ giúp cho cuộc chiến đời này, nhưng nhất là cho cuộc chiến quyết liệt trong giờ lâm tử ; vừa xin ơn tha tội cho Hội Thánh lữ hành trên trần gian để không một tín hữu nào sa hỏa ngục, vừa cầu nguyện cho các tín hữu còn đang chịu thanh luyện trong luyện ngục chỉ còn biết cậy trông vào lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu.

Mỗi chục kinh Mân Côi đều hướng tâm hồn về một mầu nhiệm cứu độ để chiêm ngắm và chúc tụng Thiên Chúa, đồng thời cũng là lời cầu khẩn xin Chúa ban ơn cho mọi người. Chúng ta cầu xin cho mình được bắt chước các nhân đức của Chúa, như khiêm nhường, khó nghèo, vâng phục, hy sinh đền tội, cùng vác thánh giá và cùng chết với Chúa để cùng sống lại với Chúa. Nhưng chúng ta cũng còn cầu cho các nhu cầu của Giáo hội và toàn thể nhân loại. Chẳng hạn khi ngắm Năm Sự Vui, chúng ta nhớ đến các gia đình trẻ, những bà mẹ đang mang thai, những người trẻ đang phân định ơn gọi ; chúng ta cầu xin cho việc bảo vệ sự sống, cho các trẻ em bị bỏ rơi, cho việc giáo dục thanh thiếu niên, cho đời sống hôn nhân và gia đình. Khi ngắm Năm Sự Sáng, chúng ta nhớ đến cuộc khủng hoảng về sự thánh thiện trong Dân Chúa và cầu cho mọi người sống thánh thiện theo ơn gọi của mình, cầu cho các gia đình đang gặp khó khăn, cho các Kitô hữu nguội lạnh không còn thực hành đức tin. Khi ngắm Năm Sự Thương, chúng ta cầu cho các dân tộc đang đi trên con đường Thánh giá tăm tối của lịch sử khi phải gánh chịu những cuộc chiến lâu dài, cầu cho công lý và hòa bình trên thế giới, cho các Kitô hữu đang chịu bách hại vì đức tin, cầu cho người nghèo khổ và bệnh nhân, cho người bị gạt ra bên lề xã hội hay bị quên lãng. Khi ngắm Năm Sự Mừng, chúng ta cầu cho công cuộc Phúc Âm hóa, cho các Kitô hữu vâng theo tác động của Chúa Thánh Thần để sống đời chứng nhân giữa lòng thế giới, biết loan báo niềm hy vọng Phục sinh cho nhân loại khổ đau, biết xây dựng thế giới theo đường hướng của Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.

Như lịch sử chứng minh, Kinh Mân Côi tuy đơn sơ khiêm tốn nhưng hiệu quả lại lớn lao không ngờ. Kinh Mân Côi tựa như những viên sỏi của cậu bé chăn chiên Đavít có khả năng chiến thắng sức mạnh gươm giáo của tên khổng lồ Gôliat. Có rất nhiều Gôliat của thời đại đang tấn công nhân loại : Gôliat của tiền bạc của cải, Gôliat của lạc thú hưởng thụ, Gôliat của tự do lệch lạc, Gôliat của quyền lực độc tài, Gôliat của những ý thức hệ sai lầm. Đứng trước sức mạnh của những Gôliat ấy, chúng ta thấy mình quá nhỏ bé và có nguy cơ bị nuốt trửng. Nhưng 200 viên sỏi của tràng hạt Mân Côi chính là sức mạnh của “Thiên Chúa các đạo binh” để chiến thắng sự dữ trong thế gian.

Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi nhắc nhở toàn thể Hội Thánh về sứ mạng cầu nguyện. Cùng với sứ mạng rao giảng Tin Mừng, sứ mạng phục vụ người nghèo khổ, Hội Thánh cũng có sứ mạng cầu nguyện. Một Hội Thánh cầu nguyện với Kinh Mân Côi sẽ có khả năng canh tân chính mình và làm thay đổi thế giới.

Cũng như Đức Mẹ đã cùng với các Tông đồ cầu nguyện trong Nhà Tiệc ly, ngày nay xin Mẹ cũng đồng hành và nâng đỡ Hội Thánh trong sứ mạng cầu nguyện.

+ Gm. Giuse Nguyễn Năng

]]>
Suy niệm loan báo Tin Mừng (20.10.2019 – Chúa Nhật Tuần 29 TN, Khánh Nhật Truyền Giáo) https://tintuc5.samba.vn/suy-niem-loan-bao-tin-mung-20-10-2019-chua-nhat-tuan-29-tn-khanh-nhat-truyen-giao/ Tue, 12 Nov 2019 05:45:27 +0000 http://tintuc.muathemewordpress.net/?p=475 Suy niệm loan báo Tin Mừng (20.10.2019 – Chúa Nhật Tuần 29 TN, Khánh Nhật Truyền Giáo)

(Trích 31 bài giảng của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)

Lời Chúa:

BÀI ĐỌC I: Xh 17, 8-13

Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: “Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi”. Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.

BÀI ĐỌC II: 2 Tm 3, 14 – 4, 2

Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.

Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Đức Kitô, Đấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn.

PHÚC ÂM: Lc 18, 1-8

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: “Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù’. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: ‘Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc’ “.

Rồi Chúa phán: “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” 

Suy niệm

Vì rơi vào ngày Chúa Nhật mừng lễ Khánh Nhật Truyền Giáo, bài đọc I hôm nay với bài tường thuật về trận chiến giữa quân Amalech và Ítraen có thể gây bối rối cho những ai muốn nói về tầm quan trọng của ơn gọi truyền giáo của người Kitô hữu. Bài đọc có thể bị hiểu sai như là kích động thánh chiến hay kêu gọi việc chiêu dụ cực đoan. Trái lại, truyền giáo nhắm tới việc công bố cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu và sự hòa giải với Thiên Chúa được Đức Giêsu cống hiến. Mục đích của truyền giáo là làm chứng cho Đức Giêsu, thông truyền Tin Mừng của Người, xây dựng Hội Thánh của Người, trong một bầu khí huynh đệ chân thành và tôn trọng tự do đích thực trong việc cùng nhau tìm kiếm sự gia tăng hiệp thông và công bằng trên thế giới. Chưa kể đến việc Tin Mừng cũng dạy chúng ta, qua gương sáng của Đức Giêsu, là phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại chúng ta. Những người được rửa tội và được sai đi không có một sản phẩm để bán hay áp đặt cho thế giới. Là Hội Thánh của Đức Kitô trong sứ mạng truyền giáo, người tín hữu lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa để công bố, làm chứng và thông truyền sự sống ấy cho sự cứu rỗi của bản thân mình và của mọi người khác.

Bản văn Kinh Thánh của sách Xuất Hành 17:8- 13 cho chúng ta ký ức về một giai đoạn trong đó Ítraen, một dân lánh nạn đang đi tìm một mảnh đất để định cư, bị đe dọa diệt vong và phải dấn mình vào một cuộc đấu tranh cho sự tồn vong của mình. Chỉ cậy dựa vào sự trợ giúp của Thiên Chúa, với niềm tin chắc chắn giành chiến thắng cũng như được giải phóng khỏi đất Ai Cập, dân tộc Ítraen lưu giữ ký ức về trận chiến này, và về các trận chiến khác sau đó, làm bằng chứng cho lòng tin của họ vào vị Thiên Chúa thật, là Chúa trời đất, Thiên Chúa các đạo binh, Đấng an ủi kẻ yếu đuối và giải phóng những người bị áp bức. Đây là lời ca tụng mà thánh vịnh gia, với lòng tin cậy và biết ơn, dâng lên cho Đức Chúa, Đấng bảo vệ Ítraen: Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?

Ơn phù hộ tôi đến từ ÐỨC CHÚA
là Ðấng dựng nên cả đất trời. (Tv 121:1-2)

Các yếu tố gây hấn, oán ghét và hận thù đi kèm theo cách diễn giải này của Cựu Ước về đức tin trong lịch sử cần phải được thanh tẩy dần dần qua các thế kỷ bởi dân thánh, như các ngôn sứ và các bậc khôn ngoan, và cuối cùng bởi Chúa Giêsu, Hoàng tử Hòa Bình và Công Lý, Đấng đã được các ngôn sứ nhìn thấy trước và chờ đợi hàng thế kỷ. Những gì từng được hiểu như là sức mạnh và bạo lực trong việc tiêu diệt các ngẫu tượng và các dân ngoại, thì nay trong Đức Giêsu, nó trở thành một niềm đam mê nóng bỏng và một tình yêu thương bừng cháy đối với việc cứu rỗi mọi người.

Thập giá Chúa Giêsu là nơi mà sự ác đã bị đánh bại bởi tình yêu của Đấng chết vì chúng ta, chết thay cho chúng ta, trải nghiệm cái chết của chúng ta như là của chính Người. Người cũng chịu chết để cứu độ những kẻ bách hại và những kẻ thù của Người. Mọi sự oán thù bị tiêu diệt bởi Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, nơi Người và trong sự hiệp thông Ba Ngôi, sự oán thù và sự chết càng khơi dậy tình yêu lớn hơn và lòng thương xót hiệu quả hơn. Thiên Chúa đã huỷ diệt tội lỗi, sự bất công và sự chết của chúng ta bằng cách mang lấy tất cả những điều ấy nơi chính bản thân Người, và đã tiêu diệt chúng nhờ tình thương vô biên của Người. “Cái chết của Đức Kitô trên Thập Giá là đỉnh điểm của việc Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình, trong đó Thiên Chúa tự hiến chính mình để nâng con người lên và cứu độ họ. Đó là tình yêu trong hình thái triệt để nhất. Trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, sự giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết đã được thực hiện” (ĐGH Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis, số 9). Tân Ước và toàn bộ Sách Thánh giới thiệu cho chúng ta và dạy dỗ chúng ta về hành động cứu độ này của Thiên Chúa trong thế giới.

Trong viễn tượng này, bài đọc 2 cho chúng ta thấy Thánh Phaolô dạy cho Timôthê biết tầm quan trọng của Sách Thánh như thế nào: “từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Ðức Kitô Giêsu” (2 Tm 3:15). Trên thực tế, Timôthê đã học Sách Thánh từ thời thơ ấu, giống như mọi bé trai Do Thái; kể từ đó, các trẻ em Kitô hữu cũng học Sách Thánh, với sự trợ giúp của cha mẹ các em và cộng đoàn. Timôthê ở tuổi thanh niên đã cùng với cả gia đình mình đón nhận đức tin trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Tông Đồ Phaolô và sau này trở thành một thành viên trong đoàn truyền giáo của Phaolô. Là con của một người mẹ Do Thái và người cha Hy Lạp, Timôthê đã lãnh nhận từ thời niên thiếu một nền giáo dục tôn giáo sâu xa và vững chắc từ bà ngoại anh là cụ Lôít và mẹ anh là bà Êunikê, hai người phụ nữ đã dạy anh hiểu biết Sách Thánh. Đây là điều cần thiết, vì Sách Thánh được Thiên Chúa linh hứng, và nếu được cắt nghĩa tốt (thay vì bị sửa đổi và xuyên tạc, như Thư 2 của Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta; x. 2 Pr 1:19-21), Sách Thánh khích lệ chúng ta làm việc lành và xây dựng chúng ta trong sự công chính và thánh thiện. Nhiệt tình truyền giáo chân chính không phải là thái độ chiêu dụ bằng bạo lực, nhưng là ước muốn một trái tim huynh đệ đầy tràn Đức Kitô và được Thánh Thần thúc đẩy để hợp tác vì sự cứu rỗi và hạnh phúc của mọi người, mọi nhóm sắc tộc, bằng cách chia sẻ những giá trị đạo đức và văn hóa, những niềm vui và hy vọng, tìm kiếm một sự sống viên mãn và bình an đích thực, là chính Đức Giêsu Kitô đã chết và phục sinh. Vì lý do này, Thánh Phaolô mạnh mẽ khuyên nhủ Timôthê hiến toàn thân xác và linh hồn cho việc giảng dạy Lời Chúa, trong khi đợi chờ ngày Quang Lâm của Chúa.

Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô thường xuyên nhắc đến sự phục vụ của Timôthê cho công việc rao giảng Tin Mừng. Là người luôn sẵn sàng và chăm chú, anh quảng đại và yêu mến đồng hành với các cộng đoàn Hội Thánh. Phaolô nhắc các tín hữu Philipphê nhớ đến chứng tá và lòng trung thành của Timôthêô: “Nhờ Chúa Giêsu, tôi hy vọng có thể sớm cử anh Timôthê đến với anh em… Anh em biết: anh Timôthê đã chứng tỏ mình là người có giá trị, bởi vì anh ấy đã cùng với tôi phục vụ Tin Mừng, như con với cha” (Pl 2:19.22). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, Thánh Phaolô nhấn mạnh lòng can đảm và đặc sủng truyền giáo của Timôthê: “Và chúng tôi đã phái anh Timôthê, người anh em của chúng tôi và cộng sự viên của Thiên Chúa trong việc loan báo Tin Mừng Ðức Kitô; anh đến để làm cho anh em được vững mạnh, và khích lệ đức tin của anh em, khiến không ai bị nao núng vì các nỗi gian truân ấy” (1 Th 3:2-3). Do đó, Timôthêô sẵn sàng đi và cần mẫn phục vụ các giáo hội mới lập, làm sáng tỏ những mối hoài nghi của họ và nâng đỡ các cố gắng của họ. Lời Thiên Chúa là sức mạnh và là bạn đồng hành của anh.

Câu đáp ca Allêluia, với giọng trữ tình và lời lẽ trau chuốt, là một thánh thi tuyệt vời ca tụng Lời của Thiên Chúa, được mô tả là “sống động và hiệu quả”, vì nó thấm sâu vào lòng chúng ta như một thanh gươm hai lưỡi. Như lời thánh vịnh gia, Chúa dò thấu lòng trí chúng ta và thấy rõ mọi đường đi nước bước của chúng ta. Cũng vậy, chúng ta thấy ẩn dụ thanh gươm trong thư Êphêsô; được gọi là gươm của Thần Khí, Lời Thiên Chúa đầy sức mạnh thấm sâu vào tâm hồn (x. Ep 6:17). Một vũ khí ác liệt của chiến tranh cũng được dùng làm biểu tượng cho một cuộc chiến đấu khác, đó là cuộc chiến đấu thiêng liêng tạo nên sự sám hối và hoán cải, niềm vui và sự sống mới, lòng nhân hậu và trung thành. Đây là những hoa quả của Lời Thiên Chúa sống động và thân thiết, hoa quả của Đức Khôn Ngoan thấu suốt mọi sự, thấm nhuần mọi sự và phán xét mọi sự, hiện diện trong tâm khảm chúng ta và chiếu sáng chói lóa khiến không ai có thể bị che khuất. Tin Mừng Đức Giêsu, sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, là thần khí và sự sống. Tin Mừng này làm cho kẻ chết sống lại, phục hồi nhân phẩm cho những người bị loại trừ, ban niềm vui cho người sầu khổ, đổi mới mọi tạo vật, biến đổi, thánh hóa và ban sự sống đời đời. Tuy nhiên, khi Lời soi sáng, Lời cũng đồng thời xét xử, vì Lời gỡ bỏ các mặt nạ của linh hồn, tiết lộ sự thật được bày ra trong lương tâm. Trong trái tim của người được Thần Khí của Chúa Phục Sinh đổ vào, sự phán xét của Lời luôn luôn là để ban ơn tha thứ và thanh tẩy.

Dụ ngôn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật hôm nay mô tả cảnh một bà góa bị một quan tòa tham ô từ chối quyền được tự biện hộ, một trải nghiệm mà nhiều người trên thế giới phải chịu ngày nay. Câu chuyện dụ ngôn được đặt trong khung cảnh “trong một thành kia” (Lc 18:2), một thành không có tên vì những điều được kể có vẻ xảy ra ở khắp nơi – luật pháp phải được thi hành cho những kẻ thù của quan tòa; còn đối với các bạn bè của quan tòa, chỉ cần diễn giải.

Người đàn bà góa trong dụ ngôn không phải là bạn của quan tòa, vì thế chị không được quan tòa lắng nghe. Bà góa này chồng đã chết, và trong xã hội Palestin ở thế kỷ 1, bà không được quyền thừa kế gia sản của người chồng quá cố. Các bà góa dễ bị tổn thương về kinh tế và dễ bị bóc lột, như Đức Giêsu đã nặng lời nhắc nhở chúng ta khi Người tố cáo các kinh sư xâu xé tài sản của các bà góa (Lc 20:46-47). Vì không có luật sư, bà góa phải tự biện hộ chống lại đối thủ của bà. Đức Giêsu phơi bày lập luận trong lòng ông quan tòa bất lương, người không quan tâm tới các lời phàn nàn của bà góa và không thèm biết bà là ai. Ông ta không kính sợ Thiên Chúa, cũng chẳng đoái hoài gì tới lợi ích của người dân. Người đàn bà góa nhất quyết không để mình bị làm ngơ, kể cả trước một ông quan tòa bất lương, cho tới khi án kiện của bà được giải quyết có lợi cho bà.

Đức Giêsu dùng các dụ ngôn để dạy chúng ta về nhu cầu phải cấp bách và liên tục cầu nguyện. Nếu kinh nguyện là trái tim của sứ mạng Hội Thánh, đó là vì trong mối quan hệ của cá nhân và của Hội Thánh với với Thiên Chúa (phụng vụ), những con người và những cộng đoàn được đổi mới nhờ ơn cứu độ Đức Giêsu ban cho chúng ta. Câu hỏi của người về đức tin khi Người sẽ đến lại có vẻ như chỉ ra một mối quan tâm của Người về hiệu quả của sứ mạng sẽ được thi hành và tính chân thực của chứng tá của các môn đệ truyền giáo. Những môn đệ này, được tháp nhập vào Mầu Nhiệm Vượt Qua nhờ phép rửa, được sai vào thế giới rong tư cách Hội Thánh của Đức Kitô, cộng đoàn của những người được cứu chuộc, là hạt giống và khởi đầu của Nước Trời hầu cho toàn thể lịch sử và toàn thể nhân loại có thể được biến đổi và cứu chuộc. Hiệu quả của việc cầu nguyện liên tục, của sự liên lỉ van xin, của việc bền tâm tìm kiếm lòng yêu mến sự thật và công lý, giúp tôi luyện khả năng truyền giáo của người môn đệ. Chỉ những ai kiên tâm cầu nguyện mới đặt Đức Kitô vào tâm điểm đời sống của họ và của sứ mạng được trao cho họ, giúp tăng cường đức tin. Chỉ những ai kiên trì cầu nguyện mới trở nên chăm chú và có khả năng lắng nghe, thể hiện và khám phá ra những nhu cầu và những đòi hỏi của sự cứu rỗi vật chất và thiêng liêng luôn hiện diện trong con tim của loài người hôm nay.

Nguồn: Uỷ ban loan báo Tin Mừng

]]>